Những “đầu tàu” kinh tế ở Pa Cheo

LCĐT - Những năm gần đây, một số hộ đồng bào Mông ở xã Pa Cheo (Bát Xát) đã thay đổi tư duy, mạnh dạn đầu tư chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, trở thành những “đầu tàu” kinh tế dẫn dắt các hộ khác thoát nghèo.

Những “đầu tàu” kinh tế

Dòng suối trong vắt chảy ra từ những cánh rừng cổ thụ dưới chân dãy núi đá khổng lồ rồi vắt ngang qua đầu thôn Bản Giàng, vùng đất xa nhất xã Pa Cheo, cách trung tâm xã 12 km. 3 năm qua, ngay đoạn đường đầu thôn, một phần dòng chảy của suối được dẫn vào những ống nước to như bắp chân người lớn rồi chảy vào một hệ thống ao tròn xếp hình bậc thang. Nguồn nước trong vắt và mát lạnh ấy trở thành môi trường thích hợp để anh Sùng A Sài nuôi 2 giống cá đặc sản là cá hồi và cá tầm.

Anh Sùng A Sài tâm sự: Năm 2009, khi sang khu vực Bản Khoang, Tả Giàng Phình thuộc thị xã Sa Pa, tôi thấy bà con người Mông, người Dao bên đấy nuôi cá nước lạnh cho thu nhập cao. Về Pa Cheo, tôi đi khảo sát và tìm được điểm ở đầu thôn Bản Giàng rất thuận lợi để đào ao nuôi cá vì dòng suối sạch, nước lạnh chảy quanh năm. 2 năm đầu bán cá, mỗi năm tôi thu lãi khoảng 150 triệu đồng. Năm 2021, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá cá hồi thấp nên chỉ lãi được khoảng 70 triệu đồng. Thật vui khi năm nay giá cá hồi tăng, nếu đàn cá phát triển tốt và bán được giá trên 300.000 đồng/kg như hiện nay thì vụ cá này tôi sẽ thắng lớn.

Cùng với đầu tư nuôi cá hồi, cá tầm, anh Sùng A Sài còn phát triển mô hình nuôi lợn đen bản địa và trồng su su. Anh xây dãy chuồng lợn kiên cố và đang nuôi 32 con lợn đen bản địa, mỗi con khoảng 40 kg, chỉ 2 tháng nữa đàn lợn có thể xuất bán. Tận dụng thôn Tả Pa Cheo có diện tích đất rộng, anh làm hệ thống giàn su su, mỗi vụ bán quả su su được khoảng 5 triệu đồng. Tổng thu nhập từ mô hình kinh tế tổng hợp của anh Sùng A Sài cho thu nhập trên 200 triệu đồng mỗi năm.

Anh Ma Khoa ở thôn Kin Sáng Hồ cũng là một điển hình trong phát triển kinh tế ở địa phương. Sáng nào anh cũng cùng vợ con tất bật lùa đàn ngựa hơn 20 con đi chăn thả ở những vạt đồi nhiều cỏ. Gia đình anh đang sở hữu đàn ngựa nhiều nhất xã Pa Cheo và cũng nằm trong tốp đầu những hộ nuôi ngựa trên các xã vùng cao của huyện Bát Xát.

Anh Ma Khoa cho biết: Gia đình tôi đã nhiều năm nuôi ngựa, đến năm 2020, đàn ngựa của gia đình có 6 con. Năm 2021, nhờ nguồn vốn cho vay ưu đãi của huyện, tôi đầu tư 400 triệu đồng mua thêm 12 con ngựa và xây chuồng trại. Sau 1 năm, đàn ngựa sinh sản thêm 3 con. Mô hình chưa đem lại thu nhập nhưng đến cuối năm, nếu bán 3 con ngựa 1 tuổi, ít nhất cũng thu được khoảng 70 - 80 triệu đồng.

Anh Sùng A Sài nuôi cá nước lạnh để nâng cao thu nhập.
Anh Sùng A Sài nuôi cá nước lạnh để nâng cao thu nhập.

Giải “bài toán” giảm nghèo

Đến xã Pa Cheo, hỏi thăm tình hình đời sống và phát triển kinh tế của bà con, tôi được biết đây vẫn là một trong những xã có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất huyện Bát Xát, với trên 77% hộ nghèo (theo tiêu chí mới). Ở một xã có 100% đồng bào dân tộc Mông cùng tỷ lệ hộ nghèo cao như vậy, câu chuyện về những trăn trở xung quanh chuyện giảm nghèo, về mô hình phát triển kinh tế của những gia đình như anh Sùng A Sài, anh Ma Khoa luôn là vấn đề đáng quan tâm.

Ông Đỗ Đức Chiến, Bí thư Đảng ủy xã Pa Cheo thông tin: So với những xã khác của huyện, Pa Cheo không phải địa bàn quá xa, lại nằm trên tuyến đường kết nối sang xã Ngũ Chỉ Sơn, thị xã Sa Pa, giao thông khá thuận tiện. Pa Cheo nằm ở độ cao trung bình từ 900 - 1.500 m so với mực nước biển, nhiệt độ dao động từ 16 - 25 độ C, khí hậu ôn đới mát mẻ, đất đai rộng rãi, rất phù hợp cho việc phát triển trồng trọt, chăn nuôi. Về dân cư, Pa Cheo có hơn 3.100 nhân khẩu, trong đó hơn 2.000 người đang ở độ tuổi lao động. Đó là những thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội mà không phải xã nào cũng có.

- Nhưng bao năm qua Pa Cheo vẫn thuộc xã nghèo nhất huyện Bát Xát - tôi nói.

- Tôi kể vài câu chuyện nhỏ này thì nhà báo sẽ hiểu. Vừa qua, một số đơn vị hỗ trợ khoảng 50 triệu đồng cho 1 hộ nghèo để làm nhà ở, xóa nhà tạm. Tuy nhiên, hộ này nói phải được hỗ trợ đủ tiền làm toàn bộ ngôi nhà thì mới làm. Về phát triển kinh tế, xã Pa Cheo hiện có 50 ha lê trước đây được Nhà nước hỗ trợ trồng rải rác ở các thôn. Lê Tai nung trồng ở Pa Cheo nhiều quả, quả ngọt hơn nơi khác nhưng bà con bỏ bê không chăm sóc nên cây thiếu chất, quả nhỏ. Khi hỏi, bà con bảo mấy vụ trước không bán được nên không chăm sóc nữa. Cán bộ xã đến tuyên truyền, vận động cải tạo vườn lê và năm tới sẽ kết nối thu mua giúp nhưng bà con cũng ít quan tâm...

Nghe Bí thư Đảng ủy xã kể chuyện, tôi hiểu rằng nguyên nhân của cái nghèo nằm ngay ở chính suy nghĩ và hành động của người dân. Khi bà con vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại và không có ý chí thoát nghèo, không có khát vọng làm giàu thì “bài toán” giảm nghèo vẫn nan giải. Thực tế cho thấy có nhiều giải pháp giúp bà con thoát nghèo, nhưng trước hết cần tuyên truyền để người dân thay đổi tư duy, thoát ra khỏi sự trì trệ để nỗ lực vươn lên.

Cần sự quyết tâm và đồng thuận

Trở lại câu chuyện về những “đầu tàu” kinh tế ở Pa Cheo cho thấy, khi ngày càng có thêm nhiều mô hình kinh tế, cách làm mới thì càng tạo ra một động lực mạnh hơn kéo “đoàn tàu giảm nghèo” đi nhanh.

Ông Đỗ Đức Chiến cho biết thêm: Đúng là để tạo ra động lực thoát nghèo ở Pa Cheo thì câu chuyện về những “đầu tàu” kinh tế như anh Sùng A Sài, anh Ma Khoa sẽ có sức lan tỏa mạnh để bà con học hỏi, làm theo. Minh chứng là hiện nay ở một số thôn xa xôi trên địa bàn xã như Tả Pa Cheo, Séo Pa Cheo đã có những hộ đang thay đổi hướng phát triển kinh tế. Tiêu biểu như các hộ: Châu A Sềnh, Châu A Tính… mạnh dạn đầu tư nuôi cá hồi, cá tầm, trồng lê Tai nung. Ngoài ra, có 3 hộ phát triển mô hình nuôi lợn đen bản địa, mỗi hộ từ 25 - 30 con, 12 hộ trồng su su theo hướng hàng hóa.

- Vậy, để tạo ra “lực đẩy” mạnh hơn cho bà con thoát nghèo, cấp ủy đảng, chính quyền xã có những giải pháp gì? - Tôi hỏi.

- Trong thời gian tới, cấp ủy đảng, chính quyền xã sẽ triển khai đồng bộ các giải pháp định hướng, hỗ trợ bà con phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Trọng tâm từ nay đến năm 2025 là thực hiện kế hoạch trồng mới 30 ha lê Tai nung, 20 ha mận Bắc Hà, mận Tả Van, tiếp tục vận động bà con chăm sóc, cải tạo 50 ha lê đã trồng. Cùng với đó, xã phát triển đàn ngựa từ 200 con lên 500 con, phát triển các mô hình nuôi lợn đen bản địa. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu đi đầu để bà con làm theo. Kế hoạch đã đề ra, trong thực hiện sẽ gặp không ít khó khăn, nhưng chỉ cần cấp ủy đảng, chính quyền và bà con cùng quyết tâm, đồng thuận thì chắc chắn sẽ thay đổi diện mạo cho vùng đất này - ông Chiến khẳng định.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Sức sống mới ở Thác Tiên

Sức sống mới ở Thác Tiên

Nhờ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719), thôn Thác Tiên, xã Mỏ Vàng đã vươn mình mạnh mẽ với diện mạo mới, sức sống mới.

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Vượt qua thời điểm bị bệnh vàng lá, thối rễ từng khiến cả nghìn ha cam của huyện Văn Chấn (cũ) bị xóa sổ, xã Chấn Thịnh hôm nay, sau hợp nhất 3 xã: Đại Lịch, Chấn Thịnh, Tân Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm, chuyên canh có quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng.

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw