Nậm Mòn: Khúc nhạc hân hoan

LCĐT - Về thôn Nậm Mòn, xã Nậm Mòn (huyện Bắc Hà) chẳng thấy những khoảnh đất “biếng lười” nằm phơi nắng, phơi sương mà luôn ngập tràn màu xanh tươi tốt…

Chuyện kể hôm nay

Từ khoảng sân nhà Bí thư Chi bộ thôn Nậm Mòn - ông Vàng Văn Xưởng, vẫn nghe rõ tiếng suối chảy như khúc nhạc hân hoan vang lên giữa núi đồi xanh thẳm. Ông Xưởng bảo, chính từ nguồn nước mát lành đổ về ấy đã làm nên dáng hình, cuộc sống của Nậm Mòn hôm nay.

Thôn Nậm Mòn là nơi sinh sống của 86 hộ, với gần 350 nhân khẩu. Ở rẻo cao này chia thành 3 chòm xóm của đồng bào Tày, Nùng, Mông cùng sinh sống. Trước đây, thôn chỉ có người Tày, người Nùng, về sau, khi thực hiện chủ trương chia tách, sáp nhập thôn, một nhóm hộ người Mông trở thành dân cư của thôn.

Những người cao niên của thôn vẫn kể cho con cháu đời sau về nguồn gốc tên gọi  Nậm Mòn. Trong tiếng Tày, “nậm” là nước, “mòn” trong từ “mậy mòn” nghĩa là cây dâu. Tên gọi của chốn này xuất phát từ nguồn nước mát lành chảy qua gốc dâu cổ thụ trước khi đổ về khe thung. Khi những thế hệ người Tày đầu tiên đến đây khai hoang, họ nhìn địa thế có đất bằng để làm ruộng, có nước mát để tưới tiêu, sinh hoạt nên quyết định lập bản ở chốn này. Điều này cũng thể hiện một trong những nét đặc trưng của cộng đồng người Tày, họ luôn sinh sống ở những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước. Hôm nay, gốc dâu cổ thuở mới lập thôn đã vắng bóng, chỉ còn dòng nước mát lành vẫn chảy trôi, cung cấp nước cho đôi bờ ruộng đồng tươi tốt.

Nhìn từ trên cao, có thể thấy dòng suối chưa từng được đặt tên lặng lẽ chảy như một nhát cắt chia đôi vùng đất. Đôi bờ suối là vùng sản xuất với những cánh ruộng bình lặng, bằng phẳng, xa xa là chòm xóm của người Nùng, người Tày. Có lẽ, nhờ lợi thế về đất đai, nguồn nước mà Nậm Mòn là thôn duy nhất của xã trồng được 2 vụ lúa xuân và hè thu.

Khi chúng tôi đến nhà cũng là lúc vợ con của Bí thư Chi bộ thôn chuẩn bị làm cốm và khẩu rang từ những bó lúa mới thu. Thứ mùi thơm dịu nhẹ, man mác, pha thêm chút ngọt ngào của sữa lúa lan đi khắp khoảng không. Những bông lúa nếp non vẫn còn ngậm sữa được để riêng làm cốm, bông lúa già hơn thì làm khẩu rang. So với nhiều bản làng khác thì mùa làm cốm nơi này hơi muộn. Đem thắc mắc này hỏi Bí thư Chi bộ thôn, tôi nhận được nụ cười cùng lời giải thích: Đây là giống lúa nếp cái hoa vàng mới được đưa về trồng ở thôn, thời gian trồng và thu hoạch muộn hơn giống bản địa chừng nửa tháng. Năm 2019, từ lời mách của người quen về một giống lúa nếp dẻo thơm, tôi cùng chú em trong gia đình là 2 hộ đầu tiên trồng thử. Vụ mùa năm ấy, nhà tôi gieo 8 kg thóc giống. Ban đầu tôi chỉ tính trồng thử một vụ xem sao, thế mà lại thành công. Hợp đất, hợp nước nên cây lúa nếp cái hoa vàng sinh trưởng tốt trên đất Nậm Mòn, không bị sâu bệnh, có những cây cao ngang đầu người, hạt thóc căng tròn, chắc nịch. Cốm hoặc khẩu rang làm từ giống nếp này cũng mềm dẻo, thơm ngon.

Thế rồi từ vụ cốm năm ấy của nhà ông Xưởng, người dân bắt đầu đưa giống khẩu cư bản địa hay sâu bệnh, năng suất thấp thay bằng lúa nếp cái hoa vàng. Đến nay, cả thôn có gần 20 hộ trồng giống lúa mới, diện tích chừng 1,2 ha. Những hạt gạo thơm mềm ấy được bà con dùng làm cốm, làm khẩu rang, một nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Tày từ bao đời nay. Nậm Mòn cũng là thôn đầu tiên của xã đưa giống lúa nếp mới vào sản xuất.

Không chỉ chuyện về cây lúa, người dân Nậm Mòn hôm nay đã có nhiều đổi thay trong phát triển kinh tế. Khoảng 5 năm trở lại đây, bà con đẩy mạnh trồng quế, với tổng diện tích hiện tại khoảng 16 ha. Cùng với đó, người dân khôi phục cây mận Tam hoa. Hiện cả thôn có 10 ha mận. Những cây trồng này được kỳ vọng là nguồn thu lớn trong tương lai, giúp nâng cao chất lượng đời sống của các hộ trên địa bàn.

Viết tiếp đổi thay

Kỳ thực, câu chuyện làm đường và làm kinh tế ở Nậm Mòn như hai trong một, cùng trải qua những quãng thăng trầm. Trước đây, do đường đi lại quá khó khăn, nhìn những vụ mận Tam hoa trĩu cành mà người dân không buồn thu hái. Dùng ngựa thồ chở mận đến trung tâm huyện Bắc Hà bán có khi đến nơi quá nửa bị dập, nửa còn lại cũng chẳng được giá cao. Thế nên những vườn mận bạt ngàn cứ vơi dần. Mãi đến khi nông thôn mới về, đường giao thông được đầu tư kiên cố, người dân mới yên tâm khôi phục cây trồng này. Chuyện làm cốm, khẩu rang cũng vậy. Hôm nay, người dân Nậm Mòn đã tính đến chuyện đưa nét ẩm thực này trở thành hàng hóa.

Đưa tôi đi tham quan thôn, Bí thư Chi bộ Vàng Văn Xưởng không giấu được mừng vui: Tuyến đường xe đang chạy là mơ ước bao lâu của bà con trong thôn và đã thành hiện thực. Từ đầu thôn tới điểm cuối thôn giờ chạy xe máy chỉ chừng chục phút, chứ ngày trước tôi cuốc bộ trên đường lởm chởm đất đá để đi tuyên truyền, vận động, đi từ xóm này qua xóm kia trong thôn mất cả tiếng đồng hồ. Giờ chỉ còn nhóm 7 hộ người Mông sinh sống ở trên cao là đường đi lại khó.

Đợt vừa rồi họp thôn bàn về chuyện làm đường liên thôn Nậm Mòn - Nậm Làn Cốc Cài, sau khi nghe thông tin về chủ trương và dự kiến kinh phí, bà con tán thành cao. Tuyến đường với tổng chiều dài 1,4 km, dự kiến kinh phí khoảng 120 triệu đồng, trong đó mỗi thôn có một nửa tuyến đường chạy qua và chịu một nửa kinh phí. Riêng thôn Nậm Mòn, ngoài đóng góp 700.000 đồng/hộ, ở thôn có 5 hộ hiến hơn 600 m2 đất để làm đường. Ông Hoàng Văn Dì, một trong những hộ hiến đất làm đường bảo: Ngày mưa, nhìn những gia đình xóm trên cõng con em đi học trên đoạn đường đất thấy mà thương. Lại thêm việc tuyến đường mở mới dẫn lối tới những rừng quế thêm thuận tiện, nên tôi không tiếc đất.

Còn bà Vàng Thị Pẳn thì hy vọng mai kia tuyến đường hoàn thành bà sẽ đỡ vất vả hơn vì hiện nay bà vẫn ngày ngày cuốc bộ đến khu sản xuất.

Không chỉ vậy, trong những đổi thay hôm nay ở chốn này còn kể đến việc người dân chung tay xây dựng đời sống mới. Từng một thời nhức nhối về các vấn đề xã hội, nhưng hàng chục năm nay, trên địa bàn thôn không xảy ra trường hợp tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

Bà Sùng Thị Hoa, Bí thư Đảng ủy xã Nậm Mòn đánh giá: Thôn Nậm Mòn là điểm sáng của địa phương trên nhiều lĩnh vực như phát triển đảng viên, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới. Những đổi thay này đến từ nhiều phía, trong đó phải kể đến tinh thần đoàn kết của người dân. Đây cũng là tiền đề vững chắc để thôn xây dựng thôn nông thôn mới, tô tiếp những gam màu sáng về một vùng quê đang đổi thay, phát triển như khúc nhạc hân hoan...

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Sức sống mới ở Thác Tiên

Sức sống mới ở Thác Tiên

Nhờ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719), thôn Thác Tiên, xã Mỏ Vàng đã vươn mình mạnh mẽ với diện mạo mới, sức sống mới.

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Vượt qua thời điểm bị bệnh vàng lá, thối rễ từng khiến cả nghìn ha cam của huyện Văn Chấn (cũ) bị xóa sổ, xã Chấn Thịnh hôm nay, sau hợp nhất 3 xã: Đại Lịch, Chấn Thịnh, Tân Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm, chuyên canh có quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng.

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw