Chuyện từ xưa kể lại rằng, trong một lần phát nương, người Thái vô tình phát hiện nhựa một loại cây rừng bám vào tay áo để lại những vệt màu loang lổ. Từ đó, ý tưởng về việc dùng thực vật để nhuộm vải dần hình thành. Sau bao thế hệ, người Thái Mường Lò đã phát triển thành kỹ thuật nhuộm vải tinh xảo từ các nguyên liệu hoàn toàn tự nhiên, đặc biệt là cây chàm.

Những người cao tuổi ở vùng Mường Lò cho biết, cây chàm được trồng vào mùa xuân, ưa nơi đất ẩm và râm mát. Chàm có hai loại: lá nhỏ và lá to, trong đó lá nhỏ dễ trồng hơn, còn lá to cho màu đẹp nhưng lại kén đất. Khoảng tháng 9 - 10, khi tiết trời se lạnh, người dân sẽ thu hoạch chàm vào sáng sớm tinh mơ, khi mặt trời chưa kịp làm tan nhựa.
Lá chàm được ngâm trong chum đất, kết hợp cùng nước vôi, tro bếp, men lá me… tạo thành hỗn hợp nhuộm có mùi ngai ngái, sánh đặc, được gọi là cao chàm.

Bà Hoàng Thị Tiềng, phường Nghĩa Lộ nhiều năm giữ nghề truyền thống này trong gia đình, rành rẽ từng công đoạn: “Nhuộm chàm không chỉ là một nghề, mà là nghệ thuật. Quá trình kỳ công kéo dài suốt nhiều ngày, đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên nhẫn và kinh nghiệm lâu năm. Vải trắng được mang ra suối giũ sạch, phơi se mặt vải, rồi nhúng vào chum nước chàm. Từng tấm vải được bóp đều tay, ngấm đều nước chàm, sau đó phơi trong bóng râm và lặp lại chu trình này nhiều lần, mới có được sắc chàm ưng ý, đậm sắc như màu của núi rừng Tây Bắc.

“Xưa kia, trong nhà người Thái, dưới gầm sàn luôn có chum nước chàm như một biểu tượng của truyền thống. Phụ nữ Thái từ bé đã được mẹ, được bà dạy cách nhuộm chàm, coi đó là một phần tất yếu trong hành trình trưởng thành. Bởi muốn có chiếc váy đen múa xòe, muốn có chiếc khăn piêu duyên dáng, nhất định phải biết nhuộm chàm. Cũng vì thế, phụ nữ Thái hiếm ai không biết dệt, không biết nhuộm vải” - Nghệ nhân Điêu Thị Siêng, phường Nghĩa Lộ là người am hiểu văn hóa Thái
Mường Lò chia sẻ.

Ngoài chàm, người Thái còn biết dùng củ nâu để tạo màu nâu trầm, nghệ cho màu vàng, cánh kiến cho màu đỏ cánh sen, cây “bok phón” hay cây “co hem” cho các sắc vàng… Mỗi màu là một ý nghĩa biểu tượng: trắng tượng trưng cho trời, đen tượng trưng cho đất, đỏ tượng trưng cho lửa và mặt trời, xanh chàm tượng trưng cho sự sống, vạn vật. Sự kết hợp khéo léo giữa thiên nhiên và đôi bàn tay con người đã tạo nên những tấm vải đậm hồn cốt núi rừng.
Không phải ngẫu nhiên mà màu chàm trở thành biểu tượng tinh thần của người Thái Mường Lò. Trong tâm thức dân gian đồng bào Thái, sắc chàm là hiện thân của tình yêu bền bỉ, thủy chung. Trang phục vải chàm thân thuộc trong đời sống. Váy chàm theo người con gái về nhà chồng. Khăn piêu chàm quấn đầu trong ngày cưới. Cả đời người Thái gắn với màu chàm, từ đời sống thường ngày đến tín ngưỡng, lễ hội. Sự bền màu của vải chàm cũng giống như lòng người Thái với cội nguồn: bền bỉ, thủy chung. Có những tấm vải chàm được cất giữ hơn nửa thế kỷ vẫn nguyên sắc, vẫn thơm mùi cây rừng, vẫn giữ được vẻ trầm mặc mà thanh cao, giản dị mà sang trọng.

Ngày nay, trong dòng chảy của kinh tế thị trường, nghề nhuộm chàm truyền thống đang đứng trước nguy cơ mai một, bởi nhiều lý do: nguyên liệu khan hiếm hơn; người rành nghề ngày càng già yếu, ít người kế nghiệp; sự phổ biến của vải nhuộm màu công nghiệp lấn át vải nhuộm màu tự nhiên… Nhưng cơ hội gìn giữ màu chàm, gìn giữ nghề nhuộm chàm truyền thống vẫn còn đó. Du lịch cộng đồng ở vùng Mường Lò đang phát triển là cơ hội cho chàm không còn bó hẹp trong đời sống sinh hoạt mà trở thành trải nghiệm văn hóa bản địa. Du khách có thể trực tiếp hòa mình vào không gian bản làng, cùng người Thái dệt vải, nhuộm vải, tự tay làm nên những món quà đậm đà bản sắc dân tộc như khăn piêu, túi vải…
Giữ màu chàm, giữ nghề nhuộm chàm truyền thống là sợi dây nối liền các thế hệ người Thái trong hành trình gìn giữ bản sắc. Để rồi, dù có đi xa đến đâu, dù thời gian có trôi dài bao nhiêu thế hệ, người Thái Mường Lò vẫn có thể nhìn vào tấm vải chàm mà thấy quê hương, cội nguồn.