Trong giai đoạn này, trước khi sáp nhập, UBND hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái đã tham mưu để HĐND tỉnh ban hành 5 nghị quyết hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhằm xây dựng một khung chính sách thống nhất cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Các nghị quyết bao gồm: 26/2020/NQ-HĐND, 33/2021/NQ-HĐND, 15/2022/NQ-HĐND của tỉnh Lào Cai; và 69/2020/NQ-HĐND, 05/2022/NQ-HĐND của tỉnh Yên Bái. Những chính sách này tạo nền tảng để địa phương triển khai các mô hình sản xuất mới, khuyến khích liên kết trong chuỗi giá trị và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Một trong những chính sách mang lại hiệu quả nổi bật là hỗ trợ phát triển sản phẩm OCOP. Theo Nghị quyết 26/2020/NQ-HĐND, tỉnh Lào Cai (cũ) đã đánh giá và chứng nhận 325 sản phẩm OCOP, trong đó 299 sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, với tổng kinh phí hỗ trợ hơn 4,4 tỷ đồng. Không chỉ gia tăng về số lượng, nhiều sản phẩm đã khẳng định giá trị thương hiệu trên thị trường, nhất là các nhóm thực phẩm, dược liệu, đồ uống và thủ công mỹ nghệ. Tại phường Sa Pa và xã Bắc Hà, mỗi địa phương có hàng chục sản phẩm OCOP, trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế nông thôn.
Tại xã Bắc Hà, chương trình OCOP tạo động lực thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn với những sản phẩm đặc trưng, như: mận tam hoa sấy dẻo, trà Shan tuyết, lạc đỏ Nậm Mòn, thịt lợn đen gác bếp, bánh chưng đen… Các sản phẩm này hình thành chuỗi giá trị khép kín, đem lại thu nhập ổn định cho người dân.
Thời gian tới xã sẽ tập trung mở rộng vùng nguyên liệu: cây ăn quả ôn đới, lạc đỏ, cây dược liệu, chè hữu cơ... Đây là những vùng nguyên liệu quan trọng giúp các chủ thể chủ động sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm OCOP. Xã cũng sẽ tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và phát triển các sản phẩm mới dựa trên tiềm năng, thế mạnh, mang đặc trưng của địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Việc xây dựng và định vị thương hiệu thông qua chương trình OCOP đã góp phần thúc đẩy phát triển du lịch địa phương. Hằng năm, Bắc Hà đón hơn 850 nghìn lượt khách, doanh thu năm 2025 ước đạt 1.250 tỷ đồng. GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2025 đạt 12,13%; GRDP bình quân đầu người tăng từ 43,8 triệu đồng (2020) lên 70,8 triệu đồng (2025). Những con số này cho thấy hiệu quả đa chiều của OCOP, từ sản xuất, thương mại đến dịch vụ.
Toàn tỉnh hiện có 605 sản phẩm OCOP, trong đó 2 sản phẩm đạt 5 sao, 52 sản phẩm 4 sao và 551 sản phẩm 3 sao. OCOP trở thành tiêu chí quan trọng để siêu thị, trung tâm thương mại lựa chọn sản phẩm địa phương, góp phần nâng cao tính cạnh tranh, thúc đẩy các cơ sở sản xuất đầu tư công nghệ, bao bì, bán hàng trực tuyến.
Bên cạnh OCOP, chính sách hỗ trợ dự án liên kết theo chuỗi giá trị (Nghị quyết 69/2020/NQ-HĐND của Yên Bái cũ) cũng tạo dấu ấn mạnh mẽ. Tỉnh đã triển khai 62 dự án với tổng kinh phí hơn 40,7 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều đảm bảo mục tiêu, duy trì hoạt động liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, như: chuỗi dâu tằm, măng tre Bát độ, chăn nuôi, quế hữu cơ…
Dự án xây dựng chuỗi liên kết quế hữu cơ tại xã Tân Hợp là một ví dụ điển hình. Với tổng kinh phí hơn 4,4 tỷ đồng, trong đó tỉnh hỗ trợ 800 triệu đồng, đến nay Hợp tác xã Bình An đã phát triển vùng nguyên liệu 1.000 ha với sự tham gia của hơn 300 hộ dân.
Ông Lý Hai - Giám đốc Hợp tác xã Bình An cho biết: “Khi tham gia chuỗi liên kết, người nông dân được bảo đảm đầu ra với giá cả ổn định, giảm rủi ro; còn doanh nghiệp thì chủ động nguồn cung và kiểm soát chất lượng sản phẩm”.
Tương tự, tại xã Hưng Khánh, dự án phát triển chè xanh theo chuỗi giá trị quy mô 60 ha do Hợp tác xã Nông lâm nghiệp Đát Quang thực hiện đã giúp chuyển đổi sang giống chè Bát tiên có giá thu mua cao hơn.
Ông Vũ Văn Đình - Giám đốc Hợp tác xã Đát Quang, chia sẻ: “Việc tham gia chuỗi liên kết đã giúp người dân được hỗ trợ giống, kỹ thuật, đồng thời người dân cũng yên tâm sản xuất vì có đầu ra ổn định, bảo đảm được cuộc sống”.
Những kết quả trên có được nhờ sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh, huyện và sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành. Công tác tuyên truyền chính sách được triển khai thường xuyên; hồ sơ, thủ tục cơ bản đáp ứng yêu cầu triển khai. Các nội dung hỗ trợ như: phát triển chăn nuôi hàng hóa, thụ tinh nhân tạo cải tạo đàn trâu, bò, hỗ trợ trồng rừng bền vững… đều phát huy hiệu quả rõ rệt, góp phần tăng sản lượng thịt xuất chuồng, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng và giảm rủi ro dịch bệnh.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện chính sách vẫn tồn tại một số khó khăn. Một bộ phận cán bộ cơ sở chưa nắm rõ bản chất chính sách, dẫn đến tuyên truyền chưa hiệu quả. Một số dự án chuỗi phải xin dừng do quy mô đề xuất chưa phù hợp, năng lực chủ trì còn hạn chế, hoặc ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm đứt gãy chuỗi cung ứng. Một số nội dung khó tiếp cận do yêu cầu hồ sơ, thủ tục và tiêu chí cao, trong khi nguồn lực bố trí chưa tương xứng, phụ thuộc nhiều vào nguồn lồng ghép từ các chương trình mục tiêu.
Ngoài ra, chính sách hỗ trợ lãi suất cho các trang trại nông - lâm nghiệp, thủy sản triển khai chậm do vướng quy định về dư nợ tại ngân hàng, khiến nhiều tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện vay mới để mở rộng đầu tư. Việc bố trí nguồn vốn khác nhau theo từng chính sách cũng gây khó khăn cho quá trình lồng ghép, tổng hợp và triển khai.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng những kết quả tích cực từ chương trình OCOP và các mô hình liên kết sản xuất cho thấy: khi chính sách được xây dựng đúng nhu cầu và bám sát thực tiễn, hiệu quả mang lại là rất rõ rệt. Đó là sự chuyển biến trong tư duy sản xuất, sinh kế của người dân và sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của các chủ thể kinh tế ở khu vực nông thôn.
Đặc biệt, sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, HĐND tỉnh đã ban hành hai nghị quyết mới: 12/2025/NQ-HĐND và 15/2025/NQ-HĐND, tiếp tục kéo dài chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng chính sách giai đoạn 2026 - 2030 theo hướng linh hoạt, thực tiễn và tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng cho người dân.