Bài toán cho vùng chè Bảo Thắng

LCĐT - Cây chè gắn bó với nông dân huyện Bảo Thắng từ nhiều năm nay và được coi là cây công nghiệp đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo thu nhập ổn định cho người trồng chè. Tuy nhiên, thời gian gần đây, giá trị cây chè không còn cao, người dân không mặn mà với việc trồng chè, thậm chí nhiều hộ bỏ chăm sóc chè để trồng cây lâm nghiệp thay thế.

Người dân xã Phú Nhuận chăm sóc chè.
Người dân xã Phú Nhuận chăm sóc chè.

Dẫn chúng tôi vào thôn Cốc Toòng - nơi trước đây có diện tích chè lớn nhất xã, chị Tải Thị Hợi, cán bộ nông - lâm xã Phong Niên chia sẻ trong xót xa: Giờ đây, cả vùng chè rộng lớn hàng chục ha phần lớn người dân không chăm sóc để trồng xen cây lâm nghiệp; số ít diện tích còn lại sinh trưởng, phát triển chậm do không được quan tâm đầu tư. Cứ đà này, chẳng mấy chốc vùng chè trở thành đồi rừng. Những diện tích chè không được đốn tỉa nay đã cao quá đầu người, còn cây lâm nghiệp trồng xen đang phát triển rất nhanh. 

Gắn bó với cây chè hơn 20 năm nay, anh Bàn Văn Lanh, thôn Cốc Toòng chia sẻ: Trước đây, mỗi hộ chỉ cần 4.000 - 5.000 m² chè sản xuất, quanh năm làm không hết việc. Nếu chăm sóc đúng kỹ thuật, cây chè có thể thu hái tới 8 tháng trong năm; trung bình mỗi tháng hái khoảng 3 - 4 lứa. Nhiều hộ trồng chè ở đây cũng nhờ đó có đời sống khá hơn. Nhưng mấy năm gần đây, năng suất chè giảm do già cỗi và đất trồng bạc màu, một phần giá thu mua bấp bênh, trong khi công lao động và giá vật tư tăng cao, trừ các chi phí, người trồng chè không có lãi, nên không riêng gì gia đình tôi, mà nhiều hộ trong thôn không còn mặn mà với cây chè.

Ông Phạm Viết Hưng, Phó Chủ tịch UBND xã Phong Niên cho biết: Từ năm 2010 trở về trước, chè là cây trồng “mũi nhọn” trong xóa đói, giảm nghèo cho người dân, bởi phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng và điều kiện canh tác của người dân địa phương. Để tạo được những nương chè, người dân phải khai phá nương đồi, cuốc đất trồng chè. Nhưng tiếc rằng, chỉ vài năm trở lại đây, tình trạng đó lại diễn ra ngược lại. Người dân không chăm sóc và trồng xen cây lâm nghiệp (quế, mỡ, bồ đề). Vì vậy, diện tích chè của xã đã giảm nhanh, từ gần 100 ha (năm 2013) nay chỉ còn hơn 48 ha.

Lý giải về việc người dân bỏ cây chè, ông Phạm Viết Hưng cho rằng: Hiệu quả kinh tế của cây chè trong vài năm gần đây thấp, do đầu ra thiếu ổn định, tiền thuê nhân công thu hái chè lại cao, chiếm 50% số ngày công lao động trong canh tác chè. Trong khi đó, lao động phổ thông như thợ nề, bốc vác… một ngày có thu nhập 200.000 - 300.000 đồng/người, nên nhiều hộ không mặn mà đầu tư chăm sóc chè, mà chọn hướng đi làm thuê. Tuy vậy, xã vẫn tuyên truyền, vận động nhân dân không nên bỏ cây chè, mà tập trung cải tạo, chăm sóc diện tích chè hiện có; đồng thời hướng dẫn thay thế một số diện tích chè cũ, lâu năm, năng suất thấp bằng giống chè chất lượng cao. Nhưng xem ra không mấy khả quan, diện tích chè mà người dân không chăm sóc ở địa phương vẫn tăng đáng kể. Riêng năm 2016, xã được hỗ trợ trồng mới 16 ha chè chất lượng cao, nhưng tuyên truyền, vận động mãi người dân mới đăng ký trồng được gần 3 ha.

Đối với thị trấn Phong Hải, cây chè cũng được xác định là cây trồng chủ lực để tập trung đầu tư và phát triển theo hướng hàng hóa. Tuy nhiên, do thiếu nguồn lao động, giá chè búp tươi không ổn định, lên xuống thất thường, giá phân bón tăng cao khiến nhiều hộ bỏ cây chè. Chỉ trong 3 năm, diện tích chè của thị trấn Phong Hải giảm từ 142 ha xuống 83 ha. Bà Vũ Thị Hồng Ánh, Chủ tịch UBND thị trấn Phong Hải cho rằng: Để nông dân không bỏ cây chè, cũng như duy trì vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là đảm bảo được giá thu mua hợp lý và sản phẩm đầu ra ổn định, để nông dân có thu nhập cao từ cây chè. Như trong năm 2016, giá thu mua trung bình đạt 4.000 - 4.500 đồng/kg chè búp tươi, với mức giá đó, người trồng chè hầu như không có lãi, nên nhiều hộ  không đầu tư cho cây chè.

Theo thống kê, huyện Bảo Thắng hiện còn hơn 727 ha chè.
Theo thống kê, huyện Bảo Thắng hiện còn hơn 727 ha chè.

Theo thống kê của ngành nông nghiệp huyện Bảo Thắng, trong tổng số 896,15 ha chè trên địa bàn huyện sau rà soát năm 2016, có 493,15 ha đảm bảo mật độ, năng suất; 193,6 ha chè chất lượng cao trồng mới giai đoạn 2013 - 2015 đang phát triển tốt; 209,4 ha người dân không chăm sóc, trong đó, 40,76 ha có thể phục hồi, 168,64 ha không thể phục hồi (hiện, một số diện tích người dân đưa vào trồng cây lâm nghiệp). Ông Trần Minh Sáng, Phó Chủ tịch UBND huyện Bảo Thắng cho biết: Để đảm bảo tính ổn định, bền vững trong phát triển vùng nguyên liệu chè, huyện chỉ đạo ngành chức năng và chính quyền các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân không nên bỏ cây chè, tập trung đầu tư chăm sóc, cải tạo; đồng thời, khuyến khích nhân dân mạnh dạn loại bỏ diện tích chè cũ, năng suất thấp, thay thế bằng các giống chè chất lượng cao; hướng dẫn người trồng chè tuân thủ nghiêm các quy định về sản xuất chè an toàn; tăng cường kiểm tra sản xuất, chế biến chè, có giải pháp chỉ đạo kịp thời. Đặc biệt, ngay đầu năm 2017, lãnh đạo huyện cùng các ngành, đoàn thể, Công ty TNHH một thành viên Chè Phong Hải, chính quyền các xã, thị trấn trong vùng chè tổ chức các cuộc đối thoại với những hộ trồng chè về sản xuất chè an toàn, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; ký kết tiêu thụ sản phẩm chè búp tươi theo hình thức ứng trước vật tư (phân bón, thuốc bảo vệ thực vật) và thỏa thuận giá thu mua sản phẩm chè búp tươi của bà con.

Hy vọng, với sự vào cuộc tích cực của chính quyền địa phương, những cam kết từ phía doanh nghiệp (Công ty TNHH một thành viên Chè Phong Hải), người trồng chè Bảo Thắng yên tâm duy trì, mở rộng diện tích và nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu chè.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Triển vọng phát triển kinh tế từ cây chè dây

Triển vọng phát triển kinh tế từ cây chè dây

Từng là cây mọc tự nhiên trong rừng, nay chè dây đã được người dân xã Nậm Pung (Bát Xát) đưa về trồng tại vườn nhà, bước đầu mang lại thu nhập ổn định. Nhờ sự hỗ trợ giống, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm từ doanh nghiệp, cây chè dây đang mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho xã vùng cao này.

UBND tỉnh họp báo thông tin tình hình phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2025

UBND tỉnh họp báo thông tin tình hình phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2025

Sáng 26/6, tại Trung tâm Hội nghị tỉnh, UBND tỉnh Lào Cai đã tổ chức buổi họp báo định kỳ nhằm cung cấp thông tin tình hình phát triển kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng năm 2025; phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025; cung cấp thông tin về các nội dung, vấn đề cơ quan báo chí, phóng viên quan tâm.

Gạch không nung - mô hình kinh tế xanh

Gạch không nung - mô hình kinh tế xanh

Với khát vọng vươn lên, mạnh dạn thay đổi tư duy làm kinh tế, chị Phùng Thị May, dân tộc Giáy ở thôn Luổng Láo 2, xã Cốc San, thành phố Lào Cai đã thành công với mô hình sản xuất gạch không nung. Mô hình không chỉ mang lại nguồn thu nhập cao và ổn định cho gia đình, mà còn tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương.

Chung tay thực hiện tiêu chí môi trường nông thôn

Chung tay thực hiện tiêu chí môi trường nông thôn

Thực hiện tiêu chí môi trường trong xây dựng nông thôn mới, nhiều địa phương đã huy động sự tham gia tích cực của người dân, qua đó từng bước thay đổi diện mạo nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống và giúp các địa phương giữ vững tiêu chí môi trường.

Mô hình kinh tế xanh tại Văn Bàn

Mô hình kinh tế xanh tại Văn Bàn

Tại huyện Văn Bàn, Hợp tác xã Nông Lâm nghiệp Vạn An đang khẳng định vị thế với sản phẩm trà thảo mộc OCOP 3 sao, góp phần nâng cao thu nhập và phát triển nông thôn mới bền vững.

Yên Bái: Sản phẩm OCOP vươn xa thông qua nền tảng số

Yên Bái: Sản phẩm OCOP vươn xa thông qua nền tảng số

Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số, các chủ thể OCOP trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã và đang đang đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm qua các kênh bán hàng online, bước đầu đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần mở rộng thị phần, tăng doanh số và giữ vững vị thế trên thị trường.

fb yt zl tw