
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử: Sau hơn 80 năm bị thực dân đô hộ, dân tộc Việt Nam chính thức bước vào kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, nhân dân làm chủ đất nước. Sự kiện này không chỉ kết thúc một chuỗi dài đêm trường nô lệ, mà còn mở ra cánh cửa cho một hành trình kiến tạo đầy gian khó nhưng vô cùng kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam anh hùng.
80 năm qua thực sự là một tiến trình chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam từ một quốc gia vừa giành được độc lập sang là một quốc gia vươn lên kiến thiết tương lai với rất nhiều điểm nổi bật.
Kinh tế quốc dân: Từ đói nghèo đến phát triển năng động
Năm 1945, sau khi ra đời, Việt Nam sở hữu một nền kinh tế kiệt quệ, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chưa đạt nổi vài chục triệu USD. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam thời kỳ này là nền kinh tế nông thôn, quy mô kinh tế rất thấp, tiềm lực yếu kém. GDP bình quân đầu người năm 1945 chỉ đạt 60 đồng, tương đương 35 USD, mức sống phổ thông bị đẩy xuống ngưỡng sinh tồn.

Đến năm 2024, sau gần 80 năm đấu tranh gìn giữ nền độc lập và kiến thiết, đổi mới, xây dựng đất nước, Việt Nam có quy mô GDP đạt 476,3 tỷ USD, đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới, GDP bình quân đầu người là 4.700 USD - một bước nhảy hơn 130 lần so với năm 1945. Đồng thời, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 786 tỷ USD, tiếp tục giữ vững vị trí trong nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài (FDI) gần như bằng không trước năm 1991 đến năm 2024 tổng vốn FDI đăng ký gần 502,8 tỷ USD, vốn thực hiện đạt gần 322,5 tỷ USD.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Công nghiệp chế biến, chế tạo, du lịch, dịch vụ phát triển nhanh; công nghiệp hỗ trợ được đẩy mạnh; nông nghiệp có bước chuyển mạnh; đồng thời, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế số được chú trọng.

Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ sang nền kinh tế số, công nghiệp công nghệ cao và các mô hình sản xuất dựa trên đổi mới sáng tạo, qua đó, không chỉ có sự gia tăng về lượng mà còn làm thay đổi sâu sắc cả về chất trong năng lực kinh tế của quốc gia.
Hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai một cách chủ động và tích cực, đã thiết lập quan hệ thương mại với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) với hơn 60 nền kinh tế, mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu, thu hút FDI, tiếp cận công nghệ mới từ các đối tác kinh tế hàng đầu trên thế giới, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Từ “mù chữ” đến phát triển toàn diện và đổi mới sáng tạo
Ở Việt Nam, năm 1945, hơn 90% dân số mù chữ, giáo dục tiểu học và trung học xa rời thực tế, giáo dục đại học chỉ nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ thừa hành bản xứ phục vụ cho hoạt động cai trị của thực dân Pháp.
Đến năm 2025, đại bộ phận người dân trưởng thành đều biết chữ; đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Tỷ lệ học sinh đến trường ở các cấp học đạt gần 99%, mạng lưới giáo dục đại học mở rộng đến hơn 300 trường, trong đó nhiều cơ sở đào tạo công nghệ thông tin, kỹ thuật số và y sinh học được quốc tế công nhận.



Giáo dục hiện đang chuyển dịch từ mục tiêu phổ cập sang định hướng đổi mới, với việc tích hợp STEM, kỹ năng số và tư duy sáng tạo trở thành các nền tảng chiến lược. Điều này có nghĩa là không chỉ tập trung vào việc bảo đảm cho mọi người có cơ hội tiếp cận giáo dục, mà còn chú trọng đến việc trang bị cho người học những kiến thức, kỹ năng và phẩm chất cần thiết, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số.
Khoa học-công nghệ đang chuyển mình mạnh mẽ. Nghiên cứu, ứng dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất, kinh doanh được tập trung thúc đẩy. Công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, internet vạn vật và blockchain được đầu tư và phát triển.
Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia thu nhập trung bình có chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) cao, xếp thứ 44 thế giới về GII năm 2024, duy trì kết quả vượt trội trong 13 năm liên tiếp. Hệ sinh thái khởi nghiệp tăng từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 3 trong 6 nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á. Các mô hình kinh doanh số, tài chính số, blockchain, kinh doanh xanh, và dữ liệu lớn được đẩy mạnh áp dụng, giúp nâng cao hiệu quả, cải thiện trải nghiệm khách hàng và tăng sức cạnh tranh quốc tế. Nổi bật là công nghệ tài chính (Fintech), trò chơi điện tử, trí tuệ nhân tạo (AI) trong học tập và các sản phẩm xanh...
Từ khan hiếm sang bảo đảm toàn dân
Khi giành được độc lập năm 1945, Việt Nam gần như không có hệ thống y tế công cộng quy chuẩn. Người dân chủ yếu dựa vào các phương thức chữa trị truyền thống, thiếu tiếp cận với dịch vụ y tế cơ bản. Tuổi thọ trung bình của người dân năm 1945 chỉ đạt 38 tuổi, trong khi tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh và do các bệnh truyền nhiễm vượt ngưỡng 100/1.000 ca sinh sống. Năm 1945, dịch tả diễn ra ở nhiều nơi, làm hàng vạn người chết. Nạn đói, rét đã sản sinh ra vô số loại bệnh tật mà trước đó chưa được gọi tên. Trên mọi nẻo đường đất nước, nhất là ở nông thôn, các thị trấn nhỏ, người Việt Nam trông thật tiều tụy, rách rưới, bẩn thỉu, đầy rẫy bệnh tật.

Từ cuối thập niên 1950, các trạm y tế xã, đội tiêm chủng và chiến dịch phòng chống dịch bệnh bắt đầu được hình thành tại miền Bắc. Sau năm 1975, mô hình y tế quốc gia được triển khai toàn diện. Đến năm 2025, tuổi thọ trung bình tại Việt Nam đã đạt mức 74,5 tuổi, tăng hơn 36 năm so với thời điểm đất nước độc lập năm 1945. Hệ thống bệnh viện công được hiện đại hóa theo hướng liên thông tuyến dưới - tuyến trung ương, đồng thời triển khai hồ sơ sức khỏe điện tử tại hơn 80% số địa phương, ứng dụng AI hỗ trợ chẩn đoán bệnh tại nhiều bệnh viện lớn như Bạch Mai, Chợ Rẫy, Trung ương Huế.
Bảo hiểm y tế được phổ cập rộng rãi với tỷ lệ bao phủ toàn dân dự kiến đạt 95% vào năm 2025, một bước tiến vượt bậc so với con số chưa đến 5% trước thập niên 1990. Trong 3 năm 2021-2023, chi thường xuyên cho y tế chiếm 6,8% tổng chi thường xuyên của ngân sách nhà nước, cho thấy mức độ ưu tiên chính sách rõ rệt trong lĩnh vực này. Song hành cùng đó, tỷ lệ nghèo đa chiều đã giảm xuống dưới 5%, từ mức hơn 70% vào cuối những năm 1980, phản ánh hiệu quả của các chương trình an sinh xã hội có trọng điểm: xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ các hộ gia đình yếu thế và thực hiện chính sách ưu tiên cho các khu vực vùng sâu, vùng xa.
Việt Nam đã vượt khỏi mô hình y tế bao cấp sơ khai, tiến tới hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng thông minh, tích hợp công nghệ, hành chính hiện đại và quản trị rủi ro xã hội. Việc xác định con người là trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia được thể hiện rõ nét qua chính sách y tế, an sinh và phúc lợi xã hội đầy đủ, minh bạch, có khả năng chống chịu với những biến động toàn cầu như đại dịch COVID-19 và các thách thức an ninh sinh học.
Từ di sản của thực dân đến sức mạnh mềm văn hóa thời hội nhập
Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945, nền văn hóa dân tộc chứa đầy tàn tích của gần một thế kỷ bị thực dân nô dịch. Văn hóa bị bóp nghẹt do chính sách ngu dân của chính quyền thực dân phong kiến, nghệ thuật truyền thống bị xem thường, các hủ tục, tập tục, nghi lễ mê tín dị đoan luôn hiện diện ở khắp mọi ngõ ngách trong đời sống; tầng lớp trí thức bị lôi cuốn theo văn hóa ngoại lai…

Sau 80 năm, đến nay, Việt Nam đã từng bước xây dựng được nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển. Văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển; tạo nên thế và lực mới, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sang thế kỷ XXI, đặc biệt là từ khi gia nhập WTO, Việt Nam định hướng phát triển công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế mũi nhọn. Các lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc đương đại, xuất bản, mỹ thuật, thiết kế thời trang… không chỉ góp phần làm gia tăng giá trị sản xuất nội địa mà còn mở rộng xuất khẩu ra thế giới dưới dạng dịch vụ văn hóa. Việt Nam đón gần 18 triệu lượt khách quốc tế năm 2024, trong đó phần lớn lựa chọn du lịch gắn với di sản văn hóa-lịch sử và trải nghiệm bản địa.

Giá trị xuất khẩu dịch vụ văn hóa, bao gồm điện ảnh và âm nhạc, tăng trung bình 12%/năm giai đoạn 2020-2025. Việt Nam có 16 di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại được UNESCO ghi danh, cho thấy khả năng bảo tồn và quảng bá văn hóa của Việt Nam vượt khỏi biên giới quốc gia. Điện ảnh, âm nhạc, du lịch văn hóa, các di sản văn hóa phi vật thể được bảo tồn và quảng bá trên nhiều kênh khác nhau đã góp phần nâng cao sức mạnh mềm quốc gia.
Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà đã trở thành một thành tố chiến lược, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng GDP và xuất khẩu dịch vụ. Sức mạnh mềm quốc gia được xây dựng trên sự kết nối giữa bản sắc dân tộc và công nghệ toàn cầu, tạo vị thế vững chắc cho Việt Nam trong mạng lưới các quốc gia có ảnh hưởng văn hóa khu vực.
Từ thế bị bao vây, cô lập đến bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Năm 1945, lực lượng vũ trang nhân dân, bao gồm Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đều còn hết sức non trẻ, thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, chưa hoàn chỉnh về mặt tổ chức, phải đối mặt với rất nhiều khó khăn về lực lượng và cơ sở vật chất.
Sau tám thập niên, đến nay, quốc phòng, an ninh Việt Nam đã chuyển mình mạnh mẽ, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, bao gồm cả trên biển, trên không, trên không gian mạng; giữ thế tích cực, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; kết hợp chặt chẽ xây dựng với bảo vệ, lấy xây dựng để bảo vệ; tích cực, chủ động xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về mọi mặt ngay từ trong thời bình để tạo sức mạnh răn đe, ngăn chặn mọi ý đồ, hành động xâm lược và âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Về ngoại giao, trong giai đoạn đầu sau khi thành lập nước, Việt Nam chưa được quốc tế chính thức công nhận rộng rãi và phải đối mặt với sự bao vây, cô lập chính trị trong suốt thời kỳ chiến tranh.
Sau 80 năm, ngoại giao Việt Nam đã khẳng định vai trò tiên phong trong bảo vệ hòa bình, thúc đẩy hợp tác và nâng cao vị thế quốc gia.
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, trong đó có 37 quốc gia là đối tác chiến lược và đối tác chiến lược toàn diện; là thành viên của hơn 70 tổ chức quốc tế. Việt Nam đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, ngày càng khẳng định vị thế là một quốc gia có trách nhiệm toàn cầu. Việt Nam tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như biến đổi khí hậu, gìn giữ hòa bình, hợp tác phát triển, an ninh khu vực.
Năng lực ngoại giao của Việt Nam thể hiện rõ qua vai trò trung gian trong một số đối thoại liên quan đến an ninh biển, xung đột thương mại và chống khủng bố xuyên quốc gia, đóng góp tiếng nói chính sách có trọng lượng trong các thể chế toàn cầu; khẳng định hình ảnh của Việt Nam là một quốc gia độc lập, kiên định về nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về chiến lược, đạt được sự cân bằng giữa bảo vệ chủ quyền và hội nhập quốc tế.
Sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 1945-2025 là một tiến trình đặc biệt - không tuyến tính, không dựa vào mô hình sao chép, mà phản ánh một quá trình liên tục tích hợp giữa lịch sử và đổi mới, phát triển, giữa bản sắc và hiện đại hóa. Đến nay, Việt Nam có kinh tế tăng trưởng vượt bậc, mức sống của nhân dân được nâng cao, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm mạnh; các hệ thống xã hội như giáo dục, y tế, an sinh được phổ cập và hiện đại hóa đồng bộ theo hướng ngày càng hiện đại và nhân văn.
Trong bối cảnh thế giới đầy biến động, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống người dân và vị thế trên trường quốc tế, định hình bản sắc phát triển riêng của mình; đó chính là thành tựu sâu sắc nhất của hành trình “từ kỷ nguyên độc lập đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”./.
Tác giả: Phó Giáo sư-Tiến sỹ Vũ Trọng Lâm
(Giám đốc-Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật)
