Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
Rộng mở vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa từ Nghị quyết 10

Rộng mở vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa từ Nghị quyết 10

Việc triển khai Nghị quyết 10 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về Chiến lược phát triển nông nghiệp hàng hóa tỉnh Lào Cai đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã giúp Mường Khương khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh, hình thành các vùng sản xuất quy mô lớn.

Mường Khương có lợi thế cạnh tranh lớn so với các địa phương khác trong tỉnh chính là đã hình thành được các vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn đáp ứng đủ nguyên liệu cho các nhà máy chế biến. Một điểm cộng cho Mường Khương là nông sản địa phương (chè, dứa, ớt) có chất lượng nổi trội, khác biệt so với sản phẩm cùng loại của các địa phương khác.

z6478120731073-01dcee5d6b278b688f25ac3a78ded31f.jpg

Trên cơ sở lợi thế đó, cùng với những mục tiêu mà Nghị quyết 10 đã xác định, Mường Khương đã tập trung tạo sự đột phá trong tư duy lãnh đạo, chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang phát triển kinh tế nông nghiệp; xác định rõ 6 ngành hàng chủ lực (chè, dược liệu, chuối, dứa, quế, chăn nuôi lợn) và 2 lĩnh vực là phát triển kinh tế đồi rừng, ngành hàng tiềm năng để đầu tư phát triển; các giải pháp nghị quyết đưa ra đã được địa phương vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tế; ưu tiên bố trí nguồn vốn ngân sách để thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh (chính sách trồng chè, chăn nuôi, xây dựng cơ sở chế biến…) và thực hiện lồng ghép nguồn vốn thuộc 3 chương trình mục tiêu quốc gia; tiếp tục phát triển thị trường trong nước, duy trì vững chắc thị trường truyền thống (Trung Quốc, Trung Đông...) và mở rộng thị trường mới, tiềm năng như EU, Nhật Bản...

Nhờ những giải pháp trên, năm 2024 - năm thứ ba triển khai Nghị quyết 10, diện tích các cây trồng chủ lực của huyện Mường Khương được mở rộng. Cụ thể, trồng mới 384 ha chè, nâng diện tích chè toàn huyện lên 5.840 ha, tăng 28% so với kế hoạch; năng suất trung bình 118,8 tạ/ha (tăng 3,3% so với kế hoạch), sản lượng đạt 36.497 tấn (tăng 3,39% so với kế hoạch), giá trị sản lượng đạt trên 261,2 tỷ đồng. Giá trị ngành hàng chè đến năm 2024 đạt 574,8 tỷ đồng, trong đó: giá trị từ sản phẩm chè búp tươi trên 261 tỷ đồng, giá trị gia tăng sau chế biến trên 313 tỷ đồng. Toàn huyện hiện có 7 công ty, hợp tác xã, hộ kinh doanh thu mua, chế biến chè, trong đó trên 95% sản lượng chè sau chế biến xuất khẩu sang các nước Trung Đông, Trung Quốc, Canada, thị trường châu Âu; khoảng 5% sản lượng tiêu thụ nội tiêu.

Trồng mới 405 ha chuối, nâng diện tích chuối toàn huyện lên 955 ha (tăng 12,3% so với kế hoạch); năng suất 30 tấn/ha; sản lượng đạt 16.500 tấn. Giá trị ngành hàng chuối đạt 138 tỷ đồng. Trên 90% sản lượng chuối quả tươi được xuất bán sang thị trường Trung Quốc, 10% tiêu thụ tại các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

Trồng mới 150 ha dứa, nâng diện tích dứa toàn huyện lên 1.790 ha (tăng 5,3% so với kế hoạch); sản lượng đạt 41.160 tấn. Giá trị ngành hàng dứa đạt 339 tỷ đồng, trong đó: giá trị thu được từ bán dứa quả tươi đạt 299 tỷ đồng, giá trị gia tăng sau chế biến đạt trên 72 tỷ đồng.

Tổng đàn lợn trên địa bàn huyện có 32.612 con (tăng 0,34% so với kế hoạch); sản lượng đạt 2.720 tấn. Giá trị từ chăn nuôi lợn đạt trên 223 tỷ đồng. Trong đó, giá trị sản lượng đạt 176,8 tỷ đồng, giá trị gia tăng sau chế biến đạt 46,2 tỷ đồng. Trên địa bàn huyện có 2 hợp tác xã chế biến sản phẩm từ thịt lợn (Hợp tác xã Sơn Hòa) với 6 sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao.

Trồng mới 182 ha quế, nâng diện tích quế toàn huyện lên 2.192 ha; sản lượng thu hoạch cành lá và vỏ quế lũy kế đạt 376 tấn tươi.

z6478109511598-97a540f7fd9b57fb06ac5060755d953b.jpg
Nông nghiệp Mường Khương phát triển theo hướng tập trung, hình thành vùng sản xuất hàng hóa lớn.

Kinh tế đồi rừng phát triển theo hướng vừa khai thác gỗ vừa kết hợp với phát triển khai thác lâm sản ngoài gỗ; công tác quản lý bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học được chú trọng; phát triển trồng rừng bằng các loài cây đa mục đích, gắn kinh doanh gỗ rừng trồng với bảo vệ môi trường. Diện tích trồng rừng mới đạt 302 ha. Diện tích khoanh nuôi bảo vệ đến năm 2024 đạt 20.376 ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 44,67%. Giá trị khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ (gồm giá trị khai thác lâm sản, lâm sản phụ và dịch vụ môi trường rừng) đạt gần 240 tỷ đồng.

Cùng với phát triển các cây trồng chủ lực, diện tích các cây trồng tiềm năng của địa phương cũng được mở rộng. Năm 2024, diện tích các cây trồng tiềm năng tăng 105 ha so với năm 2023; giá trị các ngành hàng tiềm năng đạt trên 268 tỷ đồng. Cụ thể: trồng mới 55 ha quýt, nâng diện tích quýt toàn huyện lên 870 ha, sản lượng đạt 7.872 tấn, giá trị sản lượng đạt 157 tỷ đồng. Trồng thêm 50 ha lúa Séng cù, nâng diện tích vùng lúa Séng cù lên 600 ha, sản lượng đạt 3.228 tấn, giá trị sản lượng 64,4 tỷ đồng. Duy trì 161 ha hồng giòn, sản lượng đạt 225 tấn, giá trị sản lượng đạt 7,8 tỷ đồng. Duy trì 200 ha ớt và đầu tư thâm canh nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, sản lượng sau chế biến đạt 1.686 tấn tương ớt, giá trị đạt 67,4 tỷ đồng (giá trị tăng thêm 28,9 tỷ đồng).

Ông Lê Thanh Hoa, Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Mường Khương cho biết: Thời gian tới, huyện tiếp tục rà soát lại hiện trạng quỹ đất sản xuất nông nghiệp để đầu tư phát triển vùng sản xuất hàng hóa; tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu giống; phát triển kinh tế lâm nghiệp, kinh tế đồi rừng gắn với quản lý bảo vệ rừng bền vững; đẩy mạnh xã hội hóa trồng rừng sản xuất ở vùng thấp, thay thế diện tích cây trồng kém hiệu quả bằng trồng cây lâm nghiệp đa mục đích...

Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia và các nguồn vốn hợp pháp khác để hỗ trợ sản xuất, ưu tiên hỗ trợ mở rộng các vùng sản xuất hàng hóa trên địa bàn.

Tiếp tục kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa; tăng cường thu hút đầu tư các cơ sở, nhà máy chế biến nông sản gắn với các vùng sản xuất hàng hóa tập trung; đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ; tăng cường phát triển thương mại điện tử trên các sàn giao dịch thương mại điện tử, như Postmart.vn, Sendo… để mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong nước, quốc tế.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Sức sống mới ở Thác Tiên

Sức sống mới ở Thác Tiên

Nhờ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719), thôn Thác Tiên, xã Mỏ Vàng đã vươn mình mạnh mẽ với diện mạo mới, sức sống mới.

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Chấn Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm

Vượt qua thời điểm bị bệnh vàng lá, thối rễ từng khiến cả nghìn ha cam của huyện Văn Chấn (cũ) bị xóa sổ, xã Chấn Thịnh hôm nay, sau hợp nhất 3 xã: Đại Lịch, Chấn Thịnh, Tân Thịnh trở thành vùng cam trọng điểm, chuyên canh có quy mô lớn cả về số lượng và chất lượng.

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw