Quy hoạch biển là chìa khóa cho điện gió ngoài khơi Việt Nam

Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam nhấn mạnh đẩy nhanh quy hoạch không gian biển là điều cần thiết để mở ra tiềm năng lớn về phát triển điện gió ngoài khơi cho Việt Nam.

Chiều 20/4, tham dự hội thảo “Điện gió ngoài khơi và Quy hoạch không gian biển Việt Nam”, bà Ramla Khalidi - Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam - nhắc tới báo cáo “Kinh tế biển xanh - Hướng đến kịch bản phát triển bền vững kinh tế biển” do UNDP và Cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố tháng 5/2022.

Theo báo cáo, nếu áp dụng kịch bản xanh lam, ước tính các ngành kinh tế biển của Việt Nam sẽ chiếm 34% GDP (23,5 tỷ USD) vào năm 2030, trong khi GNI bình quân đầu người của người lao động trong các ngành này sẽ tăng tới 77,9% (7.100 USD) so với kịch bản thông thường.

Do đó, bà Khalidi nhấn mạnh “đẩy nhanh quy hoạch không gian biển là điều cần thiết để mở ra tiềm năng to lớn về phát triển điện gió ngoài khơi cho Việt Nam, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và mục tiêu về biến đổi khí hậu công bố tại COP26”.

“Chúng tôi nhận ra không có mô hình duy nhất trong quy hoạch không gian biển. Mỗi quốc gia phải tự xác định mô hình của riêng mình, dựa trên các ưu tiên chiến lược, dữ liệu hiện có và kinh nghiệm của các quốc gia khác”, bà nói thêm.

Hội thảo do Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) phối hợp với Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc Hội tổ chức.

Hội thảo đã đề cao vai trò quan trọng của quy hoạch không gian biển giúp xác định các khu vực phù hợp cho dự án năng lượng gió ngoài khơi, trong bối cảnh phát triển nền kinh tế xanh bằng cách thúc đẩy công nghệ đổi mới, ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu và thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng.

Khó khăn từ cả quy hoạch điện lẫn quy hoạch biển

Tại sự kiện, ông Tạ Đình Thi, Ủy ban Khoa học Công nghệ & Môi trường nhận định là một trong số những nước bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam đang tiên phong trong thực hiện những cam kết xanh, dù còn nhiều khó khăn.

Cũng theo ông Thi, Việt Nam là quốc gia biển với khả năng điện gió ngoài khơi lớn, khu vực gió cao và có tiềm năng kinh tế lớn nhất chủ yếu ở Nam Trung Bộ.

Dẫu vậy, Việt Nam đang ở giai đoạn tương đối sớm trong quá trình xây dựng tài liệu quy hoạch vùng ven biển và quản lý bền vững tài nguyên, cũng như tài liệu quy hoạch không gian biển.

Ông Nguyễn Đức Toàn, Cục trưởng Cục Biển và Hải đảo Việt Nam nhận định quá trình quy hoạch biển ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, trong đó cần sắp xếp không gian tránh mâu thuẫn giữa các ngành, hay tránh xung đột giữa phát triển kinh tế với bảo tồn môi trường và đa dạng sinh học.

“Khó khăn thứ nhất nằm ở nhận thức, khi hiểu biết về quy hoạch biển ở Việt Nam còn sơ khai. Để khắc phục hạn chế, Việt Nam đã tham khảo và học hỏi kinh nghiệm từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia, trong đó có Na Uy và Đan Mạch”, ông Toàn nói.

Về khó khăn thứ hai, ông Toàn cho rằng nằm ở việc cập nhật số liệu trên biển. “Quy hoạch là cả quá trình, cần làm và cập nhật số liệu theo từng bước”, vị lãnh đạo chia sẻ.

Quang cảnh hội thảo.

Quang cảnh hội thảo.

Trong khi đó, ông Phạm Tiến Dũng, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đề cập tới các rào cản Việt Nam gặp phải khi xây dựng điện gió ngoài khơi. Một trong số đó đến từ hành lang pháp lý còn non trẻ của Việt Nam, khi nhiều tiêu chí còn đơn giản, rời rạc và chưa có tính hệ thống hóa.

“Hai quy hoạch điều chỉnh điện gió ngoài khơi, từ quy hoạch điện, lẫn quy hoạch biển, chúng ta đều chưa có”, ông Dũng nhận định. “Chưa kể, chúng ta còn cần quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn chọn nhà đầu tư, hay tiêu chí an toàn và môi trường”.

Quy hoạch không gian biển là quá trình liên tục

Chia sẻ tại hội thảo, ông Peter Haugan - Giám đốc Chính sách, Viện Nghiên cứu Biển (Na Uy) - đã đề cập tới kinh nghiệm của Na Uy trong quy hoạch và phân vùng đại dương bền vững cho quy hoạch không gian biển.

Theo đó, các nhà quy hoạch cần nắm dữ liệu cụ thể của ngành, dữ liệu về môi trường, tác động của các hoạt động con người tới môi trường, cập nhật quy hoạch định kỳ và xem xét tính bền vững của các hoạt động.

Về xây dựng các trang trại điện gió, ông Haugan đề cập tới lời khuyên của Viện Nghiên cứu Hải dương Na Uy (IMR), trong đó tránh xây dựng ở những khu vực đặc biệt quan trọng với một số loài nhất định hoặc khu vực đặc biệt nhạy cảm. Ngoài ra, ông Haugan cũng cho rằng không nên xây dựng trong giai đoạn sinh sản của cá...

Ông Haugan cũng nhắc tới một số việc cần làm trong quá trình này, như xây dựng hướng dẫn rõ ràng về việc ngừng hoạt động sau khi kết thúc giai đoạn vận hành, đồng thời giám sát các thay đổi vật lý và sinh học trong khu vực tại giai đoạn vận hành và sau khi ngừng hoạt động.

Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam Ramla Khalidi chia sẻ với phóng viên tại hội thảo.

Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam Ramla Khalidi chia sẻ với phóng viên tại hội thảo.

Bà Ramla Khalidi cũng đưa ra một số khuyến nghị với quy hoạch không gian biển tại Việt Nam.

“Quy hoạch không gian biển nên được coi là quá trình liên tục. Chính phủ nên tập trung vào những lĩnh vực có kiến thức tốt nhất, cùng với những lĩnh vực mà quy hoạch không gian biển sẽ cung cấp định hướng và khuôn khổ tổng thể để các lĩnh vực khác có thể phát triển từ đó”, bà nói.

Ngoài ra, bà Khalidi nhấn mạnh chính phủ nên đầu tư vào khảo sát cơ bản như đo tốc độ gió, địa chất đáy biển; cân nhắc cơ chế theo dõi nhanh để có thể thử nghiệm phát triển những kilowatt điện đầu tiên; đồng thời cần gấp rút xây dựng khung pháp lý đổi mới và tiến bộ, cùng với cơ chế mua bán điện trực tiếp đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.

Chia sẻ thêm, bà Ramla Khalidi nói quá trình quy hoạch không gian biển của Việt Nam cần mang tính liên ngành, trong đó cần xem xét sự giao thoa và xung đột lợi ích giữa các ngành ngư nghiệp, thương mại, vận tải biển.

“Bên cạnh đó, quá trình tham vấn cần mang tính bao trùm. Tham vấn không chỉ giữa các bộ ngành với nhau, mà cần có sự tham gia của ngư dân, chính quyền địa phương và những thành phần dân cư bị ảnh hưởng bởi hoạt động kinh tế trên biển”, bà nhận định.

Dẫu vậy, trưởng đại diện UNDP cũng nói thêm trong quá trình chuyển đổi sang năng lượng tái tạo, Việt Nam có nhiều lợi thế hơn là thách thức.

“Việt Nam đang đi trên con đường đúng đắn để tiến tới tương lai bền vững và trở thành nước đi đầu trong khu vực về chuyển đổi năng lượng”, bà Khalidi kết luận.

Đề cập tới sự giúp đỡ của Na Uy với Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, Đại sứ Hilde Solbakken cho biết khu vực tư nhân đóng vai trò then chốt trong quá trình này.

"Chúng tôi mong muốn được hợp tác với Việt Nam trong việc phát triển môi trường thuận lợi để khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực năng lượng tái tạo", bà chia sẻ.

Nhắc tới một số công ty năng lượng tái tạo nổi tiếng đã hoạt động tại Việt Nam, vị đại sứ Na Uy cho rằng ngoài những dự án đã và đang thực hiện, họ có thể cung cấp công nghệ tiên tiến và giải pháp thông minh.

"Họ cũng có kinh nghiệm về cách phối hợp với chính phủ, cơ quan quản lý và các bên của nền kinh tế trong việc đưa ra khung chính sách và quy định hợp lý, đồng thời dự đoán tương lai ngành năng lượng, đặc biệt với các ngành mới nổi như năng lượng gió ngoài khơi và lưu trữ carbon", bà Solbakken chia sẻ.

Zingnews

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Trấn Yên: Người trồng dâu nuôi tằm "vượt bão"

Trấn Yên: Người trồng dâu nuôi tằm "vượt bão"

Nhiều năm qua, xã Trấn Yên đã quy hoạch, phát triển vùng trồng dâu, nuôi tằm với quy mô hàng trăm ha trở thành vùng trồng dâu tằm lớn nhất miền Bắc. Thế nhưng, hoàn lưu bão số 3 năm 2024 và hoàn lưu bão số 10 năm 2025 đã khiến nhiều diện tích dâu tằm bị thiệt hại nặng. Giữa hoang tàn, bùn đất, người dân Trấn Yên vẫn kiên cường gắn bó với những luống dâu ... Chính sự nỗ lực bền bỉ ấy đã và đang giúp họ phục hồi sản xuất, giữ vững sinh kế. 

Hiệu quả kép từ trồng ngô sinh khối

Hiệu quả kép từ trồng ngô sinh khối

Những năm gần đây, Trạm Dịch vụ, hỗ trợ nông nghiệp Trạm Tấu đã tích cực tuyên truyền, hướng dẫn và hỗ trợ người dân phát triển mô hình trồng ngô sinh khối phục vụ chăn nuôi. Qua đó, giúp người dân chủ động nguồn thức ăn cho gia súc trong mùa đông, nâng cao năng suất chăn nuôi, tăng thu nhập và cải thiện đời sống, tạo hiệu quả kép trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng cao.

Người nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu

Người nuôi thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu

Hầu hết hoạt động nuôi thủy sản phải đối mặt với rủi ro từ biến đổi khí hậu, môi trường, thiên tai. Với tổng diện tích nuôi thủy sản toàn tỉnh 9 tháng năm 2025 đạt trên 4.900 ha, người nuôi thủy sản tại Lào Cai đang có nhiều giải pháp hiệu quả ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.

Xã Bảo Nhai: Người dân thu nhập ổn định nhờ nuôi dê

Xã Bảo Nhai: Người dân thu nhập ổn định nhờ nuôi dê

Nép mình bên bờ sông Chảy, chợ phiên Cốc Ly, xã Bảo Nhai từ lâu đã trở thành một điểm hẹn quen thuộc của bà con các dân tộc vùng cao. Phiên chợ ở đây có nhiều nét độc đáo, hấp dẫn, trong đó điểm nhấn, tạo nên nét riêng chính là khu buôn bán dê.

Đột phá hạ tầng giao thông, kiến tạo vị thế trung tâm kết nối

Đột phá hạ tầng giao thông, kiến tạo vị thế trung tâm kết nối

Nhiệm kỳ 2020 - 2025 để lại những dấu ấn đậm nét trong bức tranh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai. Trong đó, lĩnh vực hạ tầng giao thông nổi lên như điểm sáng đột phá, định hình một tầm vóc mới, đưa Lào Cai từng bước hiện thực hóa khát vọng trở thành “cực tăng trưởng” của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.

Tập trung khôi phục sản xuất nông nghiệp

Tập trung khôi phục sản xuất nông nghiệp

Mưa lũ do ảnh hưởng của bão trong tháng 9 và đầu tháng 10 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản, nhiều diện tích cây trồng của nhân dân các địa phương miền bắc và Bắc Trung Bộ bị ngập úng. Hiện nay, chính quyền các địa phương và nhân dân đang tập trung khôi phục sản xuất để ổn định cuộc sống.

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp

Xây dựng, quản lý, phát triển các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ trong nông nghiệp, tỉnh Lào Cai đã tạo cơ sở quan trọng thúc đẩy sản xuất, định vị thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh của các nông sản địa phương trên thị trường và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp

Thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp

Khơi dậy tinh thần hợp tác, liên kết trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, thời gian qua, Hội Nông dân tỉnh đã tích cực tham gia phát triển kinh tế tập thể (KTTT) trong nông nghiệp. Những chi hội, tổ hội, hợp tác xã (HTX) do nông dân làm chủ đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

A Mú Sung quyết tâm nâng cao thu nhập cho người dân

A Mú Sung quyết tâm nâng cao thu nhập cho người dân

Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người của xã A Mú Sung đạt 32,18 triệu đồng/năm, tỷ lệ hộ nghèo trên 40%. Trước thực tế đó, cấp ủy, chính quyền xã đã và đang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, trong đó trọng tâm là phát triển nông, lâm nghiệp và chăn nuôi, với quyết tâm sớm đưa địa phương thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn.

Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thuế

Đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý thuế

Với phương châm “lấy người nộp thuế làm trung tâm phục vụ”, Thuế cơ sở 6 tỉnh Lào Cai đang nỗ lực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số vào quản lý, cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Qua đó đã góp phần thay đổi thói quen của người nộp thuế, nâng cao hiệu quả quản lý thuế.

fb yt zl tw