LCĐT - Ngày cuối cùng của tháng Giêng, sương sớm chờn vờn khắp các con đường, làng bản, cánh rừng mỏng mảnh như tưởng sắp vỡ ra dưới cái nắng nhàn nhạt ngày xuân. Bà Vơi dậy sớm gạn nước ra khỏi xô gạo nếp đã ngâm từ đêm trước, cắp chiếc rổ ra vườn hái rau. Xong xuôi, bà sắp lễ cho chồng để lát nữa đại diện gia đình vào rừng làm lễ. Năm nào cũng vậy, độ này, người dân vùng cao cấm rừng, “cấm bản”.
![]() |
Bình yên bản vùng cao Mường Khương. Ảnh: Ngọc Bằng |
Bà Tráng Thị Vơi về thôn Cồ Dề Chải, xã Nậm Mòn (Bắc Hà) làm dâu đã hơn 20 năm. Phong tục của người Phù Lá nơi đây bà đã thuộc lòng. Người dân Cồ Dề Chải sống quây quần bên nhau, bên ruộng, nương và dưới sự chở che của những tán rừng. Bởi thế, chẳng biết từ bao giờ, rừng luôn được coi là vị thần hộ mệnh cho người dân trong thôn. Trong thôn luôn có một khu rừng cấm, gốc cây to nhất trong khu rừng thường được chọn làm nơi thờ cúng vì người dân nơi đây quan niệm rằng các vị thần thường trú ngụ ở những cây to, cây cổ thụ. Dưới gốc cây, một ngôi miếu nhỏ được dựng bằng đá làm ban thờ tự, tổ chức lễ cúng rừng hằng năm. Sở dĩ nơi đây được gọi là rừng cấm bởi gắn liền với nhiều điều kiêng kỵ như không được vào rừng chặt cây, bẻ cành, đi vệ sinh, không được nói tục, chửi bậy, không được thả gia súc vào rừng phá hoại, phụ nữ có thai không được vào rừng cấm…
Ngày cúng rừng, người dân trong thôn phải mặc trang phục truyền thống, chỉnh tề, những gia đình mới có tang không được tham gia. Những ngày cúng rừng, tất cả các gia đình không đi làm đồng, không vác dao, vác cuốc lên nương, vào rừng lấy củi, đào măng, không chặt cây, chẻ củi, hái rau… Bà Vơi chia sẻ: Năm nay cấm rừng 6 ngày, số ngày cấm được thông báo cho cả thôn trước một ngày và bắt đầu có hiệu lực từ ngày hôm sau. Năm nay cấm dài nên cần chuẩn bị nhiều thứ. Người dân nơi đây cấm rừng nghiêm lắm, gia đình nào không tuân thủ sẽ bị phạt, phải mổ một con gà làm lễ tạ lỗi với thần rừng.
Khi tiễn chúng tôi khỏi thôn, bà Vơi không quên dặn dò: Nhớ là không được chặt cây, bẻ cành, hái hoa đấy nhé. Biển báo cấm rừng treo ở cổng làng, không được bước, trèo qua, cũng không được tháo ra để đi mà cứ cúi người xuống đi qua là được. Ai vi phạm sẽ bị phạt.
Không riêng người Phù Lá, mà người Nùng, người Mông, người Dao… mỗi dân tộc đều có những lệ riêng liên quan đến cấm rừng, “cấm bản”. Người dân vùng cao sống dựa vào rừng, rừng chở che người dân những ngày kháng chiến, rừng cho lương thực, rừng là nơi khởi nguồn của những mạch nước róc rách chảy làm đầy những chân ruộng ngày mùa… Bởi thế, thường thì cuối tháng Giêng hoặc đầu tháng 2, người dân vùng cao thường cấm rừng, “cấm bản”. Lễ cấm rừng thường được tổ chức vào thời điểm này cũng bởi sau lễ cấm rừng, người dân vùng cao sẽ bắt đầu bước vào mùa sản xuất mới sau những tháng nông nhàn. Người dân mang ước nguyện của mình gửi đến thần rừng, cầu một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống no đủ, an vui.
Thôn Sín Chải, xã Sín Chéng (Si Ma Cai) là nơi sinh sống của cộng đồng 2 dân tộc Nùng và Mông. Ngày 30 tháng Giêng, người Nùng thôn Sín Chải vào rừng cấm trong thôn làm lễ cúng, sau đó sẽ ăn Tết tháng 2 (gọi là Cạp Nghì). Giống như người Phù Lá, lễ cúng rừng của người Nùng được tổ chức dưới một gốc cây cổ thụ, to nhất khu rừng. Trước ngày lễ, ông Nùng Văn Minh, Trưởng thôn Sín Chải cùng các gia đình dân tộc Nùng trong thôn họp bàn và cùng đóng góp để tổ chức lễ cúng. Lễ cúng lên thần rừng gồm một con lợn và một con gà. Mỗi gia đình cử một người làm đại diện (thường là nam giới), mang theo một bó hương và một tập giấy vàng để thắp hương dưới những gốc cây lớn xung quanh nơi làm lễ. Khi tổ chức phần lễ, thầy cúng sẽ xem chân gà để quyết định số ngày cấm rừng, cấm bản. Xong xuôi, mọi người cùng nhau nấu nướng, ăn hết đồ đã cúng ngay trong khu rừng chứ không được mang về. Ông Nùng Văn Minh cho biết: Năm nay xem chân gà thì số ngày cấm rừng, “cấm bản” sẽ là 2 ngày, bắt đầu từ ngày đầu tiên của tháng 2. Thầy cúng sẽ thông báo số ngày cấm cho mọi người trong thôn, gia đình nào cũng phải thực hiện nghiêm, không được vi phạm vì theo quan niệm, nếu không thực hiện những điều kiêng kỵ trong ngày này, thần rừng sẽ không bảo vệ, che chở, sức khỏe mọi người gia đình không tốt, sản xuất không được thuận lợi…
![]() |
Người Phù Lá thôn Cồ Dề Chải, xã Nậm Mòn (Bắc Hà) treo biển thông báo cấm rừng để mọi người biết và tuân thủ tục lệ. |
Khi những người đàn ông trong gia đình lên rừng cấm làm lễ thì phụ nữ lại tất tả trong bếp sửa soạn cho Tết tháng 2. Dịp này, người Nùng thường làm bánh khúc. Bánh khúc của người Nùng có cách chế biến rất đặc biệt với 2 nguyên liệu chính là gạo nếp và lá khúc. Gạo nếp ngâm kỹ, đem xay cùng lá khúc thành thứ bột bánh màu xanh đẹp mắt, đem rán như bánh dày hoặc gói trong lá chuối rồi hấp chín. Tết tháng 2 không chỉ thờ thần rừng, người Nùng còn làm một mâm cơm dâng cúng tổ tiên với những món ăn quen thuộc như thịt gà, cá, canh măng, rau, củ. Người Nùng cấm rừng, “cấm bản” tương đối giống người Phù Lá với những điều kiêng kỵ gần giống nhau, đó là không lao động, không chặt cây, bẻ cành, hái rau… Bởi thế, khi biết số ngày cấm rừng, “cấm bản”, người dân vùng cao thường chuẩn bị đủ lượng rau, củ, thức ăn, củi đốt cho những ngày sắp tới để không phạm những điều cấm kỵ.
Theo ông Nùng Văn Minh, Trưởng thôn Sín Chải, sau khi người Nùng kết thúc lễ cấm rừng thì đến lượt người Mông trong thôn làm lễ. Người Mông nơi đây cúng rừng vào 2/2 âm lịch (có nơi là 3/3). Vì đã chung sống gần nhau lâu đời nên người Nùng và người Mông đều tôn trọng lẫn nhau trong thực hiện những tín ngưỡng dân gian, không vi phạm những điều kiêng kỵ của nhau trong những ngày thực hành lễ nghi này.
Lễ cúng rừng của người Mông (còn gọi là Nào Sồng) là một ngày lễ lớn, thường được tổ chức cả làng hoặc liên làng (một vài làng cạnh nhau). Những điều kiêng kỵ khi cấm rừng, “cấm bản” của người Mông không nhiều nhưng phần lễ lại tương đối cầu kỳ. Trước ngày lễ, người dân được mời ra họp để bàn việc đóng góp tiền, lễ vật dâng cúng thần đất, thần rừng, thần sông suối. Địa điểm diễn ra lễ cúng là gốc cây to ở đầu làng, nơi thờ có xếp đá, bày rượu, cắm nến, đốt hương. Người dân trong làng sẽ mổ lợn, gà và hành lễ ngay tại nơi cúng từ lúc vật sống đến lúc chế biến thành các món chín… Lễ cúng cầu mong các vị thần phù hộ cho bản làng được yên ổn làm ăn, mọi việc đều thuận lợi, bình an, không bị mưa gió làm đổ nhà cửa. Sau lễ cúng, người đứng đầu thôn, bản sẽ công bố các quy định của làng, hương ước luật lệ do các thành viên trong làng xây dựng để mọi người được rõ. Sau phần lễ, người Mông thường cùng nhau ăn uống, trò chuyện, chơi hội. Năm nay, ảnh hưởng của dịch bệnh, phần hội sau buổi lễ được người dân trong thôn chủ động cắt giảm, tránh tụ tập đông người.
Thường sau mỗi đợt “cấm bản”, thời tiết vùng cao cũng bắt đầu có mưa. Bởi vậy, cứ sau những ngày cấm kỵ, người dân vùng cao thường lên nương tra hạt làm mùa, gieo vào đất những hạt mầm, gửi vào đó khát vọng ấm no với niềm tin một năm mưa thuận, gió hòa, cây cối tốt tươi…