Nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi còn phụ thuộc nhiều vào nguồn nhập khẩu

Theo Cục Chăn nuôi, khó khăn lớn nhất hiện nay của ngành thức ăn chăn nuôi là năng lực sản xuất nguyên liệu trong nước phục vụ cho ngành còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Ước tính nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu chiếm khoảng 65% tổng nhu cầu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước.

thucancn.jpg
Sản xuất thức ăn chăn nuôi tại nước ta hiện nay còn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết, hiện nay, cả nước có 269 cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp dạng hỗn hợp hoàn chỉnh với tổng công suất thiết kế đạt 43,2 triệu tấn. Trong đó, 90 nhà máy thuộc sở hữu của doanh nghiệp FDI (chiếm 33,5% về số lượng; 51,3% về công suất thiết kế) và 179 nhà máy thuộc doanh nghiệp trong nước (chiếm 66,5% về số lượng và 48,7% về công suất thiết kế).

Sản lượng thức ăn chăn nuôi cả nước đạt 18,8 triệu tấn trong năm 2018, tăng lên 20,8 triệu tấn trong năm 2022 (tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm trong cả giai đoạn đạt 2,6%/năm). Trong giai đoạn này, cơ cấu sản lượng thực tế thức ăn chăn nuôi đang thay đổi theo xu hướng tăng dần tỷ trọng của các doanh nghiệp FDI (từ 59,8% năm 2018 lên 62,5% năm 2022) và giảm dần của các doanh nghiệp trong nước (từ 40,2% năm 2018 còn 37,5% trong năm 2022). Dự kiến, năm 2023 cơ cấu sản lượng thức ăn chăn nuôi sẽ tiếp tục thay đổi theo xu hướng trên, một phần do Tập đoàn Masan (sản lượng thức ăn chăn nuôi chiếm khoảng 6% tổng sản lượng cả nước) đã bán toàn bộ mảng thức ăn chăn nuôi cho Công ty DeHeus (Hà Lan).

Cũng theo Cục Chăn nuôi, tổng nhu cầu thức ăn tinh (ngô, khô dầu đậu tương, cám, bột cá...) của toàn ngành chăn nuôi của Việt Nam khoảng 33 triệu tấn/năm, chủ yếu dùng cho chăn nuôi lợn và gia cầm. Để đáp ứng nhu cầu này, nước ta cần số lượng rất lớn nguyên liệu thức ăn tinh, trong khi trong nước chỉ cung cấp được khoảng 35% tổng nhu cầu, tương đương 13 triệu tấn/năm, số còn lại từ nguồn nhập khẩu.

Các sản phẩm chính của ngành trồng trọt có thể sử dụng làm thức ăn chăn nuôi gồm: 4,6 triệu tấn ngô hạt; 4,5 triệu tấn cám (từ 42,8 triệu tấn thóc); 2,5 triệu tấn sắn khô, bã sắn (tương đương 10,5 triệu tấn sắn tươi),…

So với thế giới, sản lượng ngô, đậu tương của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ (tương đương với 0,4% và 0,02%), chưa kể chất lượng và năng suất thấp đã làm giá ngô sản xuất trong nước khó cạnh tranh với giá ngô thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam có lợi thế về sản xuất gạo (chiếm 8,4% sản lượng của thế giới).

Thực tế thóc, gạo có khả năng thay thế một phần ngô làm thức ăn chăn nuôi mà không ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng chăn nuôi. Tuy nhiên, khi thay thế ngô bằng thóc, gạo, hiệu quả kinh tế đã giảm tới 33,2% do giá thóc, gạo cao hơn giá ngô. Để có thể thay thế ngô bằng thóc, gạo một cách có hiệu quả đòi hỏi giá thóc, gạo phải thấp hơn giá ngô tối thiểu 2,7 - 26,4%.

Ngoài ra, Việt Nam cũng có một số sản phẩm, phụ phẩm từ quá trình chế biến thủy sản, giết mổ gia súc, gia cầm (mỡ cá, bột cá,...) làm thức ăn chăn nuôi nhưng số lượng không đáng kể. Đối với chất phụ gia và thức ăn bổ sung chính (vitamin, axit amin...), Việt Nam phải nhập khẩu tới 80% do nước ta không có công nghệ sản xuất, thị trường tiêu thụ nhỏ không thu hút được đầu tư, mà chỉ sản xuất được một lượng nhỏ thức ăn bổ sung khoáng, chế phẩm vi sinh và thảo dược.

Theo đánh giá của Cục Chăn nuôi, nhìn chung, khó khăn lớn nhất hiện nay của ngành thức ăn chăn nuôi đó là năng lực sản xuất nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước còn hạn chế, phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu.

Trong giai đoạn 2018 - 2022, nước ta nhập khẩu từ 18,6 đến 22,8 triệu tấn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi; giá trị nhập khẩu dao động khoảng 6 - 8,9 tỷ USD (riêng năm 2021, 2022, giá trị nhập khẩu tăng mạnh chủ yếu do giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi tăng cao). Các nguyên liệu nhập khẩu chính gồm: ngô, khô dầu các loại, lúa mì, đạm động vật,... Ước tính nguyên liệu thức ăn chăn nuôi nhập khẩu chiếm khoảng 65% tổng nhu cầu nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong nước.

Báo điện tử Đảng Cộng sản

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

9X chinh phục thành công ngành F&B

9X chinh phục thành công ngành F&B

Từ một người mới chập chững bước vào kinh doanh, cô gái “9X” Đặng Hương Giang ở phường Yên Bái đã đồng sáng lập và sở hữu 3 cửa hàng kinh doanh ngành F&B (thực phẩm và đồ uống).

Chuyển biến mới trong cách nghĩ, cách làm của nông dân Púng Luông

Chuyển biến mới trong cách nghĩ, cách làm của nông dân Púng Luông

Đến với xã vùng cao Púng Luông (tỉnh Lào Cai), sẽ thấy diện mạo nông thôn có nhiều đổi thay. Nương ngô, ruộng lúa kém hiệu quả được thay thế bằng vườn cây ăn quả xanh tốt. Các trang trại chăn nuôi quy mô và mô hình du lịch cộng đồng phát triển. Tư duy sản xuất của người dân có chuyển biến rõ rệt, từ sản xuất nhỏ lẻ sang hướng hàng hóa gắn với nhu cầu thị trường.

Phát triển kinh tế nông nghiệp công nghệ cao: Hướng đi chiến lược của xã Tả Phìn

Phát triển kinh tế nông nghiệp công nghệ cao: Hướng đi chiến lược của xã Tả Phìn

Nhiệm kỳ 2025-2030, Tả Phìn xác định đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng bền vững, phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương; phát triển sản phẩm nông nghiệp chất lượng, hiệu quả, gắn với liên kết chuỗi giá trị và mở rộng thị trường tiêu thụ. Trong đó, phát triển nông nghiệp công nghệ cao được xác định là chiến lược, nhằm góp phần thay đổi diện mạo và nâng cao đời sống của người dân xã Tả Phìn.

Sức sống mới ở Thác Tiên

Sức sống mới ở Thác Tiên

Nhờ sử dụng hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ từ các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG), đặc biệt là Chương trình MTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (Chương trình 1719), thôn Thác Tiên, xã Mỏ Vàng đã vươn mình mạnh mẽ với diện mạo mới, sức sống mới.

Người giữ rừng ở Quy Mông

Người giữ rừng ở Quy Mông

Hành trình vươn lên trong cuộc sống sau chiến tranh, nhiều cựu chiến binh (CCB) không chỉ là những người lính dũng cảm năm xưa mà còn là những tấm gương sáng trong phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường hôm nay. Giữa bạt ngàn rừng xanh Quy Mông, có một người như vậy, đó là ông Triệu Tiến Châu. Từ đôi bàn tay lao động đã vươn lên làm giàu chính đáng trên mảnh đất quê hương, hơn thế còn góp phần giữ gìn những cánh rừng, để “lá phổi” của quê hương thêm xanh.

Xây dựng thương hiệu Việt trên không gian số

Xây dựng thương hiệu Việt trên không gian số

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu ngày càng số hóa, việc định vị thương hiệu Việt trên thương mại điện tử không chỉ là xu hướng tất yếu mà còn là con đường sống còn để doanh nghiệp khẳng định vị thế và phát triển bền vững. Để thực sự bứt phá, thương hiệu sản phẩm chính là lời cam kết về uy tín của doanh nghiệp với người tiêu dùng.

Trụ sở xã phường sau sáp nhập: Nơi thừa, chỗ thiếu

Trụ sở xã phường sau sáp nhập: Nơi thừa, chỗ thiếu

Qua hơn 2 tháng vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp, đại diện các địa phương cho biết gặp khó khăn, vướng mắc trong việc mô hình tổ chức bộ máy kế toán cấp xã, sắp xếp, quản lý tài sản công… Tuy nhiên, tình trạng nơi thừa, nơi lại thiếu về trụ sở, phương tiện và thiết bị đang diễn ra.

Hồng Bảo Hà - Vị ngọt trên đất thiêng

Hồng Bảo Hà - Vị ngọt trên đất thiêng

Cứ mỗi độ tháng 7 âm lịch hằng năm, du khách thập phương lại nô nức hành hương về với Lễ hội Đền Ông Hoàng Bảy tại xã Bảo Hà (Lào Cai). Dường như có một sự sắp đặt ngọt ngào của đất trời, khi thời điểm linh thiêng này cũng chính là lúc những vườn hồng không hạt nức tiếng của địa phương bước vào mùa thu hoạch rộ.

fb yt zl tw