Lên vùng chè cổ

Tôi lên xã Tả Củ Tỷ, huyện Bắc Hà đúng vào Tiết Thanh minh. Đến lối rẽ cách trung tâm xã Bản Già khoảng 2 cây số, chỉ tay sang dãy núi xa mờ trong sương, anh bạn cùng đi đường bảo: Tả Củ Tỷ đấy! Dù đường đã rải nhựa nhưng vô số cua gấp khúc, khác nào những câu hỏi dồn dập của tử thần: Có cần mạng sống hay không? Vì thế, chiếc xe máy vừa ngoặt trái vì sợ bị bay xuống vực, đã vội vàng rẽ phải để không đập đầu vào vách đá. Cách trung tâm xã chừng 6 cây số, chúng tôi bỗng gặp một rừng chè. Màu xanh mướt mát của chè đã xua tan mọi mệt mỏi và căng thẳng trong đầu. Nhìn thấy mấy phụ nữ Dao tuyển đang hái chè, nói cười vui vẻ, chúng tôi hỏi làm cách nào mà giữ được nhiều chè rừng thế? Một cô gái trẻ măng khúc khích cười: Ô! Không đúng chè rừng! Phải rừng chè đấy!

Thu hái chè.

Thu hái chè.

Đi khắp các bản, rồi lên tận rừng già Tả Củ Tỷ, tôi mới hiểu hết câu nói sâu xa của cô gái Dao ấy. Quả thật, không tìm thấy chè rừng sống chung với các loài thân gỗ. Những người già ở Tả Củ Tỷ đều nói: Cách đây sáu, bảy đời, người Nùng, người Tày rồi người Dao, người Mông về vùng này lập bản. Ngày ấy, bản người Dao tuyển ở đầu xã có nương lúa to lắm, theo tiếng quan hỏa gọi là Tả Cù Tỷ rồi gọi chệch sang là Tả Củ Tỷ. Với mong ước có cuộc sống no đủ, mọi người lấy tên ấy đặt cho vùng quê mới. Muốn cho con, cháu đời đời tươi xanh ở nương lúa to, người ta đi tìm hạt chè shan về trồng. Không có dòng họ nào ghi cây chè vào trong gia phả nên bây giờ chả ai biết rõ cây chè có mặt từ năm nào? Song, bản nào cũng có những cây chè cổ, gốc một người ôm không xuể là minh chứng rằng nó đều có vài ba trăm tuổi.

Ai mới lên vùng núi đá cao, nhìn những cây rừng uốn lượn như muôn đàn rồng bay lượn, thế nào cũng trầm trồ khen tạo hóa đã dựng nên kỳ quan sinh vật cảnh đầy sống động. Nhưng không, đó là sự chịu đựng kiên cường của cây rừng trong những trận cuồng phong thường bất ngờ ập đến. Cây chè ở đây cũng vậy, nhưng nó còn phải oằn mình giúp người chống lại những trận “lốc ngầm” là đói, nghèo, bệnh tật… thốc ra từ những mái tranh nghèo. Vì vậy, vẻ đẹp kỳ thú nhất của cây chè Tả Củ Tỷ tiềm ẩn trong những búp non như con nhộng tý hon bọc lớp tuyết trắng mờ.

Bên những cây chè cổ ở Tả Củ Tỷ.

Bên những cây chè cổ ở Tả Củ Tỷ.

Cả 6 bản của Tả Củ Tỷ đâu đâu cũng có chè. Chè trồng thành rừng. Chè định cư với các loại cây trồng. Chè đứng ven đường vào bản, ngõ vào nhà. Và lạ nữa, chè sống giữa ruộng lúa bậc thang. Cây lúa và cây chè có cuộc sống khác nhau, lúc nào lúa cũng cần nước, còn chè bị úng dăm hôm trở lên là chết không cứu nổi. Nhưng Tả Củ Tỷ là núi dốc, đất pha cát, dễ thoát nước nên hợp thủy thổ cho chè. Vào bản Sông Lẫm chỉ thấy đâu đâu cũng có đá. Đá đứng sừng sững thành núi. Đá nằm ngồn ngộn trên nương, dưới ruộng. Đá rải lổn nhổn khắp bản và ngồi thu lu dưới sàn nhà. Thế mà người ta gọi nơi đây là hố thụt, theo tiếng địa phương là Súng Lản rồi gọi chệch thành Sông Lẫm. Suốt mấy đời quần cư với người Nùng ở đây, cây chè kiên nhẫn lách rễ vào kẽ đá tìm màu mỡ để màu xanh trùm lên đá. Những hạt giống từ cây chè cổ thụ đã truyền sức sống mãnh liệt, nên các thế hệ rừng chè hợp tác, nương chè gia đình, đồi chè dự án mới cứ rộng thêm để đến nay có tới 25 héc-ta chè ở Súng Lản. 

Mấy chục năm trước, mỗi buổi sáng, tiếng mõ lại rộn ràng gọi xã viên lên nương chè hợp tác. Kinh nghiệm của cha ông truyền lại và khí thế “Vì miền Nam ruột thịt” đã tạo thành sức mạnh to lớn cho người Tả Củ Tỷ mở ra những nương chè mơn mởn trên sườn núi. Ngày ngày, từng đoàn ngựa thồ chè từ Tả Củ Tỷ nhẫn nại vượt 32 cây số đèo dốc về kho mậu dịch ở phố huyện Bắc Hà. Cùng với chè của các xã, chè Tả Củ Tỷ về Xí nghiệp Chè Lào Cai và các nhà máy chè miền xuôi để hợp nên những gói chè Hoàng Liên, Ba Đình, Thanh Hương, Hồng Đào… Giữa rừng Trường Sơn pha gói chè mạn từ Bắc gửi vào, anh giải phóng quân đâu có biết trong đó có cả búp chè shan Tả Củ Tỷ. Từ cảng Hải Phòng, chè Tả Củ Tỷ cùng chè các nơi trên miền Bắc lên tàu đè bom thủy lôi, tránh máy bay Mỹ, đi cảm ơn bè bạn năm châu đã góp phần cùng Việt Nam đánh Mỹ. Búp chè hợp tác đã trở thành muối ăn, dầu thắp, vải mặc… cho người Tả Củ Tỷ. Mấy chục năm nay, những nương chè ấy được giao lại cho các gia đình, nhưng mọi người vẫn trân trọng gọi nương chè ở sườn đồi nọ, núi đá kia là chè hợp tác.

Khi cơ chế thị trường mở ra hướng đi mới, cây chè Tả Củ Tỷ đã mở rộng thêm màu xanh gấp ba lần chè cổ, đưa lãnh địa chè toàn xã đến nay lên tới 135 héc-ta. Tuy nhiên, cây chè Tả Củ Tỷ đã và đang trải qua bao đèo dốc gập ghềnh như đường vào vùng đất nơi đây. Dẫu hàng năm có hơn 80 tấn chè khô nhưng giá chè Tả Củ Tỷ chỉ được ngồi ở ghế thấp nhất. Đúng ngày chúng tôi đến Tả Củ Tỷ, một cân chè tại thị trấn Bắc Hà là một trăm nghìn đồng, nhưng người mua chè vào chợ Tả Củ Tỷ chê ỷ ôi rồi thả tiền như bố thí vào sọt người bán có hai lăm, hai sáu nghìn đồng. Gần hai ngày ở Tả Củ Tỷ được uống chè ở các bản, tôi thấy khác lạ hơn nhiều chè các nơi. Uống vào là gặp vị ngọt thoang thoảng như đường, rồi vị chát mới nhẹ nhàng xuất hiện. Mươi lăm phút sau, vị ngọt cùng vị chát vẫn còn lưu trong miệng làm cho người sảng khoái như vừa được tiếp thêm sinh lực. Thế mà với nhiều lý do, người ta cố tình ăn chặn công sức của dân làm chè. Nào là đường xa, đèo dốc quá khó khăn, vào đây mua là phúc cho dân lắm. Nào là sao, sấy lạc hậu nên chè nhạt phèo. Nào là vùng Trung Đông đang có chiến tranh, rồi châu Âu bị khủng hoảng kinh tế, nên nước ta không xuất khẩu được chè… Tai nghe những lý do nằm tận bên kia bán cầu, đầu nghĩ đến việc con đòi mua sách, mẹ già ho suốt đêm không ngủ… nên mấy chị người Nùng, người Dao miệng nuốt nước bọt, tay trút chè sang tải dân buôn. Trong phiên chợ Tả Củ Tỷ, phải thật khôn khéo chúng tôi mới tiếp xúc được với hai vợ chồng người buôn chè từ thị trấn Bắc Hà lên. Họ loe xoe khoe mua rồi chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh chế biến để xuất khẩu sang tận châu Phi. Tôi càng xót xa cho hai bàn tay trầy xước và xám xịt nhựa chè của mấy chị bán chè. Giữa nơi giá lạnh, họ phải chăm, phải chờ có khi cả tháng trời mới được cái búp chè kia. Tôi càng thương những nương chè cổ mang tiếng là “vàng” nhưng đến năm ngoái mới giúp được gần 37% số hộ trong xã không nghèo.

Dẫn chúng tôi đi thăm nương chè rộng gần 2 héc-ta ở bản Tả Củ Tỷ, dáng người vững chắc như cây chè cổ thụ, anh Vàng Văn Tiển, Bí thư Đảng ủy xã tâm sự: “Để cây chè thực sự trở thành mũi nhọn trong xóa đói, giảm nghèo, xã chúng tôi còn nhiều việc phải làm lắm. Sáu bảy chục héc-ta chè cũ cần được sửa sang, trồng dặm để cả 135 héc-ta đều kín đất mới nâng cao được sản lượng. Phải ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trong chăm sóc và phải giữ được lề lối canh tác truyền thống để nâng cao chất lượng chè tuyết. Trước đây, phần lớn hái chè về, đảo chín rồi lèn chặt vào ống nứa và đặt lên gác bếp. Khi chè khô, thồ cả ống lên chợ bán. Bây giờ vẫn còn nhiều người sau khi đảo chín đem tãi ra sân nhờ nắng mặt trời sấy hộ. Cả hai cách chế biến ấy đã tạo ra loại chè “vàng” nhưng nó lấy đi hương thơm quý hiếm và màu xanh man mác. Vì vậy, không chỉ nhân dân mà cán bộ cũng phải học cách chế biến nó trở thành chè hảo hạng. Cuối cùng là phải tìm được thị trường tiêu thụ ổn định, không để thương lái hoành hành ép giá …”.

Nghe lời mộc mạc của anh cán bộ người Tày, chúng tôi thấy đâu chỉ là tiếng nói của người đứng mũi chịu sào ở xã vùng cao này. Đó còn là lời thì thầm của cây chè cổ đã gắn bó bao đời với Tả Củ Tỷ.

Giữa nương chè nhộn nhịp tiếng cười nói của những người đang hối hả hái chè, lòng tôi như lâng lâng một niềm tin: Truyền thống của cha ông và tinh thần chung tay xây dựng nông thôn mới chắc chắn sẽ giúp những nương chè trở thành kho vàng xanh trên vùng đất chè cổ này.

                                                                                                                               Tháng 4 năm 2013

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Hồi sinh cuộc sống sau thiên tai

Hồi sinh cuộc sống sau thiên tai

Sau những mất mát nặng nề do lũ quét, sạt lở đất gây ra trong những năm qua trên địa bàn huyện Mù Cang Chải (Yên Bái), với sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền và sự chung tay của cộng đồng, cuộc sống của người dân ở các khu tái định cư đã ổn định. Những ngôi nhà mới khang trang mọc lên thay thế cho cảnh hoang tàn sau thiên tai, mở ra một hành trình hồi sinh bền vững nơi rẻo cao.

Từ ngày 1/7, mua bán nhà đất có cần phải ra công chứng?

Từ ngày 1/7, mua bán nhà đất có cần phải ra công chứng?

Những ngày gần đây, mạng xã hội và các diễn đàn đang lan truyền thông tin từ ngày 1/7/2025, khi Luật Công chứng 2024 có hiệu lực, việc mua bán nhà đất sẽ không còn bắt buộc phải công chứng. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng chỉ cần xác thực qua ứng dụng VNeID là đủ để các hợp đồng giao dịch bất động sản có giá trị pháp lý.

Người cao tuổi không có lương hưu sẽ được nhận trợ cấp hưu trí xã hội 500.000 đồng từ 1/7/2025

Người cao tuổi không có lương hưu sẽ được nhận trợ cấp hưu trí xã hội 500.000 đồng từ 1/7/2025

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024, từ ngày 1/7/2025, công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên, không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội do ngân sách nhà nước đảm bảo với mức dự kiến 500.000 đồng/tháng.

Thu hẹp bất bình đẳng kép, kiến tạo phát triển bền vững ở những vùng dân tộc thiểu số

Thu hẹp bất bình đẳng kép, kiến tạo phát triển bền vững ở những vùng dân tộc thiểu số

Ở vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế-xã hội còn nhiều thiếu thốn, phụ nữ dân tộc thiểu số đã và đang gánh chịu sự bất bình đẳng kép: khoảng cách giới và khoảng cách địa lý. Những rào cản này khiến họ khó tiếp cận với giáo dục, việc làm và các cơ hội phát triển.

Những người nhiều “sổ đỏ”

Những người nhiều “sổ đỏ”

Không nặng về giá trị vật chất, những cuốn “sổ đỏ” đặc biệt mà chỉ những ai tham gia hiến máu mới được sở hữu lại mang trên mình giá trị nhân văn lớn lao, là nghĩa cử cao đẹp mà biết bao người có trái tim nhân ái trao tặng vì cuộc sống cộng đồng.

fb yt zl tw