Gỡ vướng về cơ chế, chính sách để giảm áp lực nợ xấu

Trong bối cảnh nợ xấu có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm, sau bão số 3 vừa qua, nguy cơ nợ xấu tăng lên tiếp tục hiện hữu khi dư nợ thiệt hại ước tính sơ bộ có thể lên tới hơn 100.000 tỷ đồng. Những yếu tố này càng khiến cho áp lực nợ xấu tại các ngân hàng gia tăng, đòi hỏi phải có thêm hướng tháo gỡ từ cơ chế, chính sách.

1-4693.jpg
Cán bộ tín dụng Agribank kiểm tra thiệt hại của khách hàng do bão số 3 để lên phương án hỗ trợ.

Nhấn mạnh về một số khó khăn, vướng mắc của hệ thống các tổ chức tín dụng thời điểm này, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Phạm Quang Dũng cho biết, nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu có xu hướng tăng, nguy cơ tăng sau khi tiếp tục chính sách cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ.

Nợ xấu có xu hướng tăng

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối tháng 7/2024, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống tổ chức tín dụng ở mức 4,75%, tăng so với mức 4,55% vào cuối năm 2023 và mức 2,03% cuối năm 2022. Trong bối cảnh này, nguy cơ nợ xấu của các ngân hàng tăng lên cũng rất lớn khi thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho thấy, tính đến nay, dư nợ thiệt hại bởi bão lụt tại các tỉnh phía bắc đã lên tới 115.000 tỷ đồng. Con số thiệt hại dự kiến còn tăng khi các tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục thống kê báo cáo, theo đó có thể đã lên tới 1% dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, về tổng nợ xấu nội bảng, nợ tại Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chưa xử lý và nợ tiềm ẩn của hệ thống các tổ chức tín dụng tính đến cuối tháng 6/2024 chiếm tỷ lệ 6,44% so với tổng dư nợ. Theo đánh giá từ Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), mặc dù tỷ lệ này giảm so với mức 6,9% vào cuối năm 2023, nhưng lại tăng so với mức 4,21% vào cuối năm 2022 và cao hơn so với tỷ lệ nợ xấu nội bảng 4,56% mà tổ chức tín dụng đang thực hiện phân loại theo quy định tại Thông tư số 11/2021/TT-NHNN về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Theo Phó Cục trưởng Cục 4 (Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng) Lê Trung Kiên, nguyên nhân nợ xấu tại một số tổ chức tín dụng có xu hướng tăng trong thời gian gần đây là do kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn, xung đột địa chính trị tại nhiều quốc gia ngày càng căng thẳng, lạm phát tại một số quốc gia chưa được kiểm soát và tiếp tục gia tăng. Trong khi đó, hoạt động kinh tế trong nước chịu nhiều ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19, thiên tai, điều kiện sản xuất kinh doanh,…

“Điều này đã dẫn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người dân chưa phục hồi vững chắc, ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng”, ông Lê Trung Kiên lý giải.

Chung quan điểm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, do ảnh hưởng dịch Covid-19 kéo dài, tình hình kinh tế-xã hội trên toàn cầu và các nước trong khu vực vẫn còn nhiều bất ổn,… từ đó kéo theo hoạt động của các tổ chức tín dụng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là trong công tác xử lý nợ xấu.

Tìm cơ chế tháo gỡ

Trước tình hình nợ xấu có nguy cơ tăng, lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại đã đồng loạt kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kéo dài thời gian cơ cấu nợ, giãn hoãn nợ. Theo kiến nghị từ Chủ tịch Hội đồng quản trị HDBank Kim Byoungho, hiện nay, tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống còn ở mức cao. Do đó, để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi bão, lũ, Chính phủ nên xem xét việc gia hạn hiệu lực của Thông tư số 06/2024/TT-NHNN về cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ tới sau ngày 31/12/2024 với các hướng dẫn cụ thể hơn về giãn, hoãn, thời hạn trả nợ.

Tổng Giám đốc TPBank Nguyễn Hưng cũng đánh giá: Nhìn lại thực tế vừa qua nhất là trong giai đoạn dịch Covid-19, các Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, 02/2023/TT-NHNN do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành về cơ cấu lại, giãn, hoãn, giữ nguyên nhóm nợ phát huy khá hiệu quả trong việc hỗ trợ tức thời doanh nghiệp, người dân. Trên cơ sở đó, ông Nguyễn Hưng kỳ vọng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét có thêm các chính sách hỗ trợ, trong đó có việc giãn, hoãn nợ để giúp doanh nghiệp giành được nguồn lực lớn, tập trung khắc phục thiệt hại do bão gây ra, sớm ổn định guồng sản xuất kinh doanh.

Tổng Giám đốc LPBank Hồ Nam Tiến đề xuất cân nhắc tiếp tục gia hạn Thông tư số 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, đồng thời bổ sung đối tượng khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3 vào danh sách được hỗ trợ. Tương tự, Tổng Giám đốc Agribank Phạm Toàn Vượng kiến nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kéo dài cơ chế cơ cấu nợ, thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng bị thiệt hại do ảnh hưởng của bão, lũ lụt, trên cơ sở cân đối dòng tiền của khách hàng, không giới hạn thời điểm giải ngân, áp dụng đối với khoản nợ đến hạn trước ngày 30/6/2025.

Ngoài ra, theo ý kiến từ nhiều lãnh đạo tổ chức tín dụng, không chỉ nợ xấu tăng cao, việc thu hồi, xử lý nợ cũng đang ngày càng khó khăn trong bối cảnh Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu đã hết hiệu lực.

Số liệu của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng cho thấy, tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, toàn hệ thống xử lý được 167.300 tỷ đồng nợ xấu, tăng khoảng 45,6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, gần một nửa trong số đó là do các tổ chức tín dụng tự xử lý bằng trích lập dự phòng rủi ro. Việc thu giữ tài sản bảo đảm, xử lý nợ xấu đang gặp nhiều khó khăn.

“Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã hết hiệu lực thi hành, nhưng một số quy định không được kế thừa trong Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, nhất là vấn đề hỗ trợ từ các cơ quan công an, chính quyền địa phương trong việc thực thi quyền thu, giữ tài sản bảo đảm của chủ nợ”, một lãnh đạo ngân hàng thương mại chia sẻ.

Theo ghi nhận của Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, việc xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu gặp một số vướng mắc chính liên quan đến quyền thu giữ, kê biên tài sản bảo đảm; thứ tự ưu tiên thanh toán đối với nguồn tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm; khó khăn trong việc áp dụng quy trình thủ tục rút gọn khi tố tụng tại tòa; khó khăn trong việc xử lý, hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự; xử lý tài sản bảo đảm là cổ phần, cổ phiếu; xử lý các tài sản bảo đảm là bất động sản hình thành trong tương lai… Chính vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng cần phải có một cơ chế pháp lý đủ mạnh để cho phép bên nhận bảo đảm tiếp cận, thu hồi tài sản bảo đảm để xử lý.

Theo nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Ngay sau khi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động, phường Trung Tâm, tỉnh Lào Cai đã tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường.

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Trong những năm gần đây, Hội Nông dân xã Bản Lầu, đã đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác hội và phong trào nông dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống hội viên. Với hơn 3.300 hội viên sinh hoạt tại 36 chi hội, phong trào phát triển kinh tế tập thể ngày càng lan tỏa, trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp địa phương.

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, huyện Mường Khương (trước đây) xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, thiếu vốn vẫn là “nút thắt” lớn đối với nông dân. Do vậy, nguồn tín dụng ngân hàng kịp thời, phù hợp của Agribank Chi nhánh Mường Khương Lào Cai II đã trở thành điểm tựa quan trọng, giúp người dân đầu tư phát triển các mô hình cây trồng có giá trị kinh tế cao.

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Giá rau xanh trên thị trường đang vào thời điểm đắt chưa từng có, nguyên nhân được cho là đầu vụ, các địa phương chưa thu hoạch rau vụ đông, bên cạnh đó, thiên tai khiến nhiều nơi không thể sản xuất rau xanh. Biến động thị trường này lại đang đem đến cơ hội tăng thu nhập cho người trồng rau trên địa bàn phường Sa Pa và một số vùng lân cận có khí hậu tương tự.

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Trên những thửa ruộng, bãi màu ở thôn Liên Hà 6, xã Bảo Hà, những luống rau vụ đông xanh mướt, thẳng hàng nối tiếp nhau đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Từ việc tận dụng diện tích đất sau thu hoạch vụ mùa, gia đình ông Lê Công Tâm được xem là điển hình trong phát triển kinh tế từ sản xuất rau.

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Năm 2025, tỷ trọng kinh tế số của tỉnh đạt 9,46% GRDP, phản ánh sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu kinh tế. Khoảng 60% doanh nghiệp trên địa bàn đã chủ động ứng dụng các nền tảng số vào quản trị, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, qua đó tối ưu hóa quy trình, giảm chi phí, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Giai đoạn 2023 - 2025, Hội Nông dân tỉnh Lào Cai đã thành lập mới 98 chi hội nông dân nghề nghiệp, nâng tổng số toàn tỉnh lên 166 chi hội với khoảng 4.500 thành viên, đồng thời duy trì 687 tổ hội nông dân nghề nghiệp với hơn 8.300 hội viên tham gia.

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Thời gian qua, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng ở các xã vùng cao như Hạnh Phúc, Phình Hồ, Trạm Tấu được triển khai đồng bộ. Các mô hình sản xuất mới từng bước tạo chuyển biến rõ nét trong thu nhập của người dân, góp phần giảm nghèo đa chiều, bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Đổi thay Lùng Phình

Đổi thay Lùng Phình

Nhờ sự quan tâm và tập trung nguồn lực cho phát triển hạ tầng, chuyển đổi mô hình sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân, diện mạo nông thôn ở xã vùng cao Lùng Phình ngày càng đổi mới, khang trang.

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Ngoài phát triển nông nghiệp với các mô hình trồng rau, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu hay phát triển du lịch, nhiều nông dân trên địa bàn xã Lùng Phình đã mạnh dạn đưa giống cây trồng mới vào sản xuất hoặc đầu tư mở xưởng mộc, chế biến gỗ... góp phần nâng cao thu nhập và từng bước giảm nghèo.

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Tháng 12, sương núi Bản Xèo buông xuống thành những dải mỏng như lụa, phủ lên những triền đá xám lạnh. Giữa cái giá rét của vùng cao, sắc cam ấm từ những vườn quýt đang độ chín như đánh thức cả sườn núi. Đó là vườn quýt của anh Vàng Văn Dũng, người đầu tiên đưa giống quýt về trồng tại xã Bản Xèo, mở ra một hướng phát triển kinh tế mới cho địa phương.

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Phát huy lợi thế về khí hậu ôn đới, đất đai rộng và màu mỡ, những năm gần đây xã Lùng Phình xác định phát triển nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao là hướng đi trọng tâm nhằm tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập và giảm nghèo cho Nhân dân. Hiện địa phương đang thu hút doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư sản xuất nông nghiệp hiện đại, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, gắn kết chặt chẽ giữa khâu sản xuất và tiêu thụ.

fb yt zl tw