Gỡ bỏ rào cản pháp lý để phát triển công nghệ sinh học trong nông nghiệp

Những năm qua, các hình thái thời tiết khốc liệt đã và đang gây tổn thất nặng nề về kinh tế, hạ tầng và đặc biệt là hoạt động sản xuất nông nghiệp, đe dọa trực tiếp đến an ninh lương thực toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cây trồng chuyển gen được xem như là một trong những giải pháp giảm thiểu những thiệt hại trên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, việc áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, các doanh nghiệp không mặn mà trong việc phối hợp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh học.

Cây trồng chuyển gen được xem như là một trong những giải pháp giảm thiểu những thiệt hại cho ngành nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay.
Cây trồng chuyển gen được xem như là một trong những giải pháp giảm thiểu những thiệt hại cho ngành nông nghiệp trong bối cảnh hiện nay.

Áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm

Cây trồng chuyển gen là một thành tựu khoa học hiện đại của nhân loại đã được nghiên cứu thành công từ những năm 80 của thế kỷ XX. Đến năm 1996, cây trồng chuyển gen chính thức được thương mại hóa trên thế giới và việc ứng dụng cây trồng này đã phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có.

Theo thống kê của Tổ chức quốc tế về Ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA), đến nay đã có 73 nước trên toàn thế giới chấp nhận cây trồng chuyển gen, bởi chúng thể hiện vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho người nông dân, tiết kiệm thời gian và công sức lao động trên đồng ruộng, tiết giảm đáng kể lượng thuốc trừ sâu mỗi vụ.

Diễn đàn “Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, ngày 5/10.
Diễn đàn “Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, ngày 5/10.

Chia sẻ tại Diễn đàn “Thành tựu và định hướng ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ phát triển nông nghiệp bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, ngày 5/10, TS, Cao Đức Phát, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Viện Nghiên cứu lúa quốc tế - IRRI cho biết, những kết quả của công nghệ sinh học đã giúp ngành nông nghiệp có nhiều thành tựu đột phá trong 30 năm qua. Trong đó, những công nghệ nổi bật có nuôi cấy mô giúp lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là các sản phẩm như ngô, đỗ tương, bông… có năng suất vượt trội, góp phần bảo đảm an ninh lương thực toàn cầu, giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật, cải thiện chất lượng đất, môi trường.

Theo thống kê, thế giới có khoảng 200 triệu ha cây trồng biến đổi gen. Tỷ lệ chiếm nhiều nhất là đậu tương, lên tới gần 80% diện tích. Ngoài ra, diện tích trồng ngô cũng tới hơn 25%. Bên cạnh nuôi cấy ngô, công nghệ sinh học giúp đẩy mạnh sử dụng các chế phẩm sinh học, giúp bảo đảm mùa vụ, nâng cao thu nhập cho người dân.

“Điều đáng tiếc là áp dụng công nghệ sinh học ở Việt Nam còn chậm, khoảng cách với thế giới có xu hướng ngày càng tăng và chưa đạt mục tiêu của Đảng, Nhà nước đặt ra. Trong đó, cản trở chính là nhận thức”, ông Phát nói.

Theo ông Cao Đức Phát, hiện công nghệ sinh học đã phát triển sang công nghệ vi sinh, công nghệ nano, công nghệ tế bào, công nghệ chỉnh sửa gen… giúp ngành nông nghiệp đạt được những đỉnh cao mới. Giới hạn áp dụng công nghệ sinh học cũng không còn bó buộc trong trồng trọt, mà mở ra sang chăn nuôi, thủy sản.

Xây dựng khung pháp lý để thúc đẩy phát triển ứng dụng công nghệ sinh học

Theo PGS,TS, Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tại Việt Nam, nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế. Những điều chỉnh hôm nay phải nhiều năm sau mới bắt đầu phát huy tác dụng. “Tác động của công nghệ sinh học, vì thế, tương đối khó cảm nhận”, ông Ninh nói.

Theo PGS,TS, Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tại Việt Nam, nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế.
Theo PGS,TS, Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tại Việt Nam, nghiên cứu khoa học công nghệ luôn có độ trễ so với thực tế.

Ông Ninh dẫn chứng, gần nhất, Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 30/1/2023 của Bộ Chính trị đã xác định, xây dựng công nghệ sinh học trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật quan trọng.

“Trước mắt, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường đề xuất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tập trung xây dựng, khai thác tối đa hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm, tập trung vào những công nghệ tế bào, công nghệ nano”, ông Ninh cho biết.

Trong giai đoạn từ nay đến 2030, số lượng nhiệm vụ khoa học công nghệ bị giảm so với cách đây 10 năm. Một phần nguyên nhân, theo ông Ninh, là rào cản về các cơ chế, chính sách, điển hình là Nghị định 70. Cụ thể, kết quả nghiên cứu thuộc phạm vi đầu tư của ngân sách Nhà nước sẽ được xem là tài sản Nhà nước. Vì vậy, doanh nghiệp thời gian qua kém mặn mà trong việc phối hợp, đầu tư nghiên cứu công nghệ sinh học.

Theo GS,TS Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp cho rằng, việc nâng cao công nghệ chỉnh sửa gen, theo GS,TS Lê Huy Hàm, hết sức cần thiết, nhằm giúp sản phẩm Việt Nam tránh khỏi những ràng buộc không đáng có đối với sản phẩm biến đổi gen (GMO).

“Công việc sắp tới rất nhiều, bao gồm cả công nghệ, hệ thống pháp luật”, ông Hàm thừa nhận và kêu gọi các nhà khoa học, cơ quan truyền thông báo chí chung tay có một hệ thống quản lý sản phẩm chỉnh sửa gen một cách thống nhất.

Theo bà Sonny Tababa, Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á, trải qua quá trình 10 năm phát triển công nghệ sinh học, Việt Nam đang trong giai đoạn rực rỡ nhất.
Theo bà Sonny Tababa, Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á, trải qua quá trình 10 năm phát triển công nghệ sinh học, Việt Nam đang trong giai đoạn rực rỡ nhất.

Theo bà Sonny Tababa, Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á, trải qua quá trình 10 năm phát triển công nghệ sinh học, Việt Nam đang trong giai đoạn rực rỡ nhất. Nguyên nhân bởi đây là quãng thời gian đủ dài để các bên liên quan có những quan sát, nghiên cứu cặn kẽ về các thành tựu đã đạt được.

“Công nghệ chỉnh sửa gen đã khẳng định được vai trò, tầm quan trọng trong nền nông nghiệp Việt Nam”, bà Sonny nhìn nhận và khuyến cáo Việt Nam nên có đánh giá tổng thể về hành lang pháp lý, cũng như các giống mới xuất hiện (cả về nông sản lẫn dịch hại) để có một cách tiếp cận mới, phù hợp với yêu cầu hiện tại.

Giám đốc Công nghệ sinh học CropLife châu Á cho rằng, cơ quan quản lý nên là đầu mối tiên phong, sắm vai trò “mở đường” cho công nghệ sinh học, giúp người nông dân có điều kiện tiếp cận nhiều hơn với công nghệ mới. Bên cạnh việc tự nghiên cứu về biến đổi gen, bà Sonny đề nghị Việt Nam tham khảo công nghệ, chính sách của các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Philippines…

“Khi nhìn vào khung pháp lý của các quốc gia lân cận, CropLife thấy có sự tương đồng với Việt Nam. Tôi tin, các bạn sẽ thu được những kinh nghiệm quý báu khi phát triển các công nghệ sinh học trong tương lai”, bà nhấn mạnh.

Theo nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Nông dân Trấn Yên phát huy vai trò chủ thể trong phát kinh tế nông thôn

Nông dân Trấn Yên phát huy vai trò chủ thể trong phát kinh tế nông thôn

Thời gian qua, Hội Nông dân xã Trấn Yên đã đổi mới nội dung và phương thức hoạt động Hội, đặc biệt, đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; triển khai đồng bộ các giải pháp, ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường hoạt động quảng bá sản phẩm và hỗ trợ hội viên vay vốn... Qua đó, giúp hội viên từng bước phát huy vai trò chủ thể trong phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Nông dân Lào Cai tích cực thi đua lao động, sản xuất

Nông dân Lào Cai tích cực thi đua lao động, sản xuất

Hướng đến Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, phong trào thi đua lao động, sản xuất đang diễn ra sôi nổi khắp các địa phương. Những vườn cây trĩu quả, những con đường sạch - đẹp, những mô hình kinh tế hiệu quả là minh chứng sinh động cho tinh thần thi đua của nông dân.

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Tại xã Púng Luông, chè Shan tuyết từ lâu đã là sản phẩm nổi tiếng của địa phương. Khi được chứng nhận OCOP, cây chè trở thành nông sản chủ lực, tạo thương hiệu và sinh kế bền vững giúp người dân vùng cao vươn lên thoát nghèo. Để giữ vững và nâng tầm thương hiệu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, Púng Luông đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ duy trì vùng nguyên liệu, cải tiến quy trình sản xuất đến mở rộng thị trường tiêu thụ.

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

Trong bối cảnh các đô thị nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu, việc xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động đô thị xanh được coi là kim chỉ nam, định hướng quan trọng, đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

Dấu ấn giảm nghèo ở Pha Long

Dấu ấn giảm nghèo ở Pha Long

Trong những năm gần đây, xã Pha Long đã chủ động và quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo chuyển biến rõ nét trong đời sống của người dân.

Gia nhập thị trường tín chỉ các-bon: Tìm lời giải cho bài toán khó

Sở hữu độ che phủ rừng lên tới 61,5% cùng hệ sinh thái đa dạng bậc nhất Tây Bắc, Lào Cai đang đứng trước cơ hội thu “tỷ đô” từ thị trường tín chỉ các-bon. Tuy nhiên, để biến những cánh rừng thành nguồn tài chính “xanh” bền vững, tỉnh Lào Cai phải giải quyết bài toán về hoàn thiện khung pháp lý, hạ tầng kỹ thuật và thay đổi tư duy của những người đang ngày đêm bám đất, giữ rừng.

Xóa nghèo ở Yên Thành

Xóa nghèo ở Yên Thành

Với cách làm chủ động, linh hoạt, sáng tạo, nhất là việc tập trung đa dạng hóa sinh kế, tạo sinh kế phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, thời gian qua, xã Yên Thành đã và đang tạo chuyển biến tích cực, giúp nhiều hộ nghèo vươn lên bằng chính sức mình, góp phần vào công cuộc giảm nghèo bền vững.

Phụ nữ xã Phúc Khánh: Chung sức xây dựng quê hương phát triển bền vững

Phụ nữ xã Phúc Khánh: Chung sức xây dựng quê hương phát triển bền vững

Những năm qua, phụ nữ xã Phúc Khánh đã khẳng định vai trò quan trọng trong xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống. Với đặc thù địa phương có trên 85% là đồng bào dân tộc thiểu số, hội viên phụ nữ nơi đây không chỉ là lực lượng lao động chủ chốt mà còn đóng vai trò “hạt nhân” trong việc xây dựng cộng đồng đoàn kết, văn minh.

Phúc Khánh: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo đột phá xây dựng nông thôn mới

Phúc Khánh: Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo đột phá xây dựng nông thôn mới

Những năm gần đây, xã Phúc Khánh đã đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hàng hóa, tập trung vào sản phẩm chủ lực và xây dựng các mô hình sản xuất theo hướng bền vững. Những nỗ lực này không chỉ góp phần nâng cao thu nhập cho người dân mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, gắn với mục tiêu xây dựng nông thôn mới “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”.

Làm giàu từ mô hình trồng rừng ở Lào Cai

Làm giàu từ mô hình trồng rừng ở Lào Cai

Từ một tỉnh miền núi còn nhiều khó khăn, Lào Cai hôm nay đã trở thành một điểm sáng về phát triển kinh tế lâm nghiệp. Những mô hình trồng rừng sau đầu tư, phát triển cây đặc sản và rừng gỗ lớn đang mở ra hướng thoát nghèo bền vững, giúp người dân miền sơn cước “ly nông nhưng không ly hương”, gắn sinh kế với bảo vệ tài nguyên, gắn lợi ích người dân với mục tiêu phủ xanh biên cương.

Lào Cai nỗ lực bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên các sông, hồ chứa

Lào Cai nỗ lực bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên các sông, hồ chứa

Những năm gần đây, cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội, hệ sinh thái thủy sinh tại nhiều sông, suối, hồ chứa ở Lào Cai chịu áp lực ngày càng lớn. Trước thực trạng này, công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm của ngành nông nghiệp và môi trường tỉnh, nhằm duy trì đa dạng sinh học và đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven sông, suối.

fb yt zl tw