Xuất khẩu gạo: Làm gì để chinh phục thị trường khó tính?

Theo dự báo, nguồn cung gạo toàn cầu giảm do một số quốc gia vẫn hạn chế xuất khẩu gạo và tình hình thời tiết khắc nghiệt khi mưa lũ, thiên tai, nắng hạn đã làm giảm nguồn cung lúa gạo. Vì vậy, xuất khẩu gạo của Việt Nam được dự báo sẽ khởi sắc và có cơ hội tiếp cận thêm nhiều thị trường khó tính.

Liên kết phát triển vùng nguyên liệu giúp việc xuất khẩu gạo của Việt Nam phát triển ổn định.

Sản xuất cần đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe

Những tín hiệu vui của xuất khẩu gạo trong quý I được nhận định một phần do các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo tận dụng tốt cơ hội từ các Hiệp định thương mại tự do (FTA); gạo Việt ngày càng thâm nhập sâu vào các thị trường “khó tính”. Chính những điều này tiếp tục khẳng định chất lượng gạo Việt ngày càng gia tăng.

Theo đó, Thông tin từ Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), hết quý I/2024, xuất khẩu gạo đạt trên 2,18 triệu tấn, tương đương 1,43 tỷ USD, giá trung bình 653,9 USD/tấn. So với cùng kỳ năm trước tăng 17,6% về lượng, tăng 45,5% về kim ngạch và tăng 23,6% về giá.

Quý I/2024, gạo xuất khẩu tiếp tục chiếm lĩnh các thị trường trọng điểm có nhu cầu tiêu thụ lớn về sản lượng. Trong đó, Philippines vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam chiếm 46,4% trong tổng lượng và chiếm 45,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo; thị trường Indonesia đứng thứ 2, tăng mạnh 199,7% về lượng, tăng 308,8% kim ngạch, Malaysia tăng 28,8% về lượng, tăng 60,6% về kim ngạch.

Giá gạo xuất khẩu sang cả 3 thị trường này đều tăng rất mạnh, trong đó giá xuất khẩu sang Indonesia tăng 36,4%, Malaysia tăng 24,7%. Không chỉ tăng về sản lượng, kim ngạch lẫn giá, Việt Nam gia tăng xuất khẩu các chủng loại gạo có giá trị cao, phù hợp với nhu cầu thị trường.

Theo nhận định của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo tận dụng tốt cơ hội thị trường từ các FTA, cơ cấu thị trường dần chuyển dịch tích cực theo hướng đa dạng hóa, bên cạnh các thị trường truyền thống như Trung Quốc, Philippines, hay châu Phi, cũng đã mở rộng sang các thị trường “khó tính” như châu Âu… với giá trị cao.

Bên cạnh đó, thương nhân cũng tận dụng tốt cơ hội trong những thách thức từ thị trường thương mại lương thực toàn cầu để trở thành nguồn cung thay thế ở nhiều thị trường tiềm năng như Mỹ, Canada, Chile.

Nhận định về bức tranh xuất khẩu gạo, ông Lê Thanh Tùng - Phó Cục trưởng Cục trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho rằng, cơ cấu giống và xuất khẩu gạo của Việt Nam có trên 80% giống chất lượng cao, đặc sản đáp ứng yêu cầu của các DN xuất khẩu.

Theo ông Tùng, sản xuất lúa gạo của Việt Nam không chỉ quan tâm đến vấn đề xuất khẩu mà còn đảm nhận vấn đề an ninh lương thực quốc gia. Hiện nay, sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL đang tập trung theo các quy trình canh tác bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu, sản xuất theo hướng đạt chuẩn để đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường trong nước và xuất khẩu.

Hội nhập càng sâu thì việc đáp ứng các yêu cầu, quy chuẩn của thị trường nhập khẩu càng phải chú trọng. “Tại các thị trường khó tính thì các tiêu chuẩn họ đặt ra rất khắt khe, vì thế cần tổ chức sản xuất để đáp ứng các yêu cầu đạt chuẩn này" - ông Tùng nói.

Đẩy mạnh phát triển thương hiệu gạo

Một số DN xuất khẩu gạo thông tin, châu Âu là một thị trường khó tính mà thời gian qua, các DN xuất khẩu phải hết sức nỗ lực mới có thể bước chân được vào thị trường này.

Chia sẻ của lãnh đạo một công ty ngành lúa gạo cho biết, hiện nay giá xuất khẩu gạo của công ty này sang 13 nước châu Âu ở mức 980 USD/tấn. Đây là mức giá khá tốt song, để vào được thị trường này không hề đơn giản, công ty này đã phải trải qua không ít thăng trầm, trong đó, nếu không chú trọng đến các yếu tố cơ bản là: Thương hiệu, công nghệ, nguồn nhân lực và tính liên kết trong chuỗi giá trị lúa gạo... thì DN khó có thể vững chân tại thị trường đầy khắt khe như châu Âu.

Và DN này cũng chỉ rõ, để tạo được chuỗi liên kết thì rất cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của chính quyền địa phương cùng với các DN để mở vùng nguyên liệu và được sự hỗ trợ của địa phương. Nếu cả chuỗi giá trị lúa gạo gắn kết, sát cánh làm từng bước thì chắc chắn sẽ hình thành nên vùng nguyên liệu.

Theo ông Bùi Bá Bổng - Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam, xuất khẩu gạo đạt được những thành tựu vừa qua đã khẳng định được thương hiệu, uy tín của lúa gạo Việt Nam khi các địa phương đã quy hoạch vùng sản xuất tập trung để ổn định chất lượng, hướng tới các thị trường xuất khẩu.

Để nâng cao hình ảnh, vị thế của gạo Việt Nam, vị chuyên gia cho rằng, các bộ, ngành cần hỗ trợ tích cực cho DN, hiệp hội quảng bá hình ảnh lúa gạo Việt Nam để phát triển thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, các DN cần quan tâm đến phát triển vùng nguyên liệu để đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng, yêu cầu thị trường.

"Vùng nguyên liệu thì bàn tay của địa phương giữ yếu tố quyết định, vì nếu các địa phương ra tay thì các DN, hợp tác xã sẽ liên kết được với nông dân. Khi nông dân liên kết lại thì có các vùng nguyên liệu ổn định và chất lượng cao theo tiêu chuẩn các doanh nghiệp. Nếu nông dân không liên kết thì không có vùng nguyên liệu ổn định, lâu dài" - ông Bổng nhấn mạnh.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng gạo hàng hóa xuất khẩu chủ yếu tập trung ở vùng ĐBSCL, tổng lượng gạo hàng hóa cho xuất khẩu tại năm 2024 ở các tỉnh vùng ĐBSCL ước đạt khoảng 7,6 triệu tấn. Trong đó nhóm gạo chất lượng cao khoảng 3,2 triệu tấn; nhóm gạo thơm, đặc sản đạt 2,5 triệu tấn; nhóm gạo chất lượng trung bình đạt 1,15 triệu tấn và nhóm nếp đạt 0,75 triệu tấn. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam dự báo, năm nay sản lượng lúa của Việt Nam đạt khoảng 43 triệu tấn, tương đương khoảng 20 triệu tấn gạo. Với số lượng gạo như vậy sẽ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ nhu cầu xuất khẩu.

Theo báo Đại đoàn kết

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Thanh toán không tiền mặt tăng trưởng ấn tượng

Thanh toán không tiền mặt tăng trưởng ấn tượng

9 tháng năm 2025, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tiếp tục tăng trưởng ấn tượng. Cùng với đó, việc triển khai Đề án 06 của Chính phủ đã tạo nền tảng dữ liệu thống nhất, thúc đẩy phát triển các dịch vụ số an toàn, thuận tiện, minh bạch hơn cho người dân và doanh nghiệp.

Hàng Việt khẳng định vị thế trên sân nhà, củng cố niềm tin người tiêu dùng trong nước

Hàng Việt khẳng định vị thế trên sân nhà, củng cố niềm tin người tiêu dùng trong nước

Giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động, thị trường trong nước đã chứng minh vai trò “trụ đỡ” cho nền kinh tế Việt Nam. Kết quả này gắn liền với việc triển khai Đề án phát triển thị trường trong nước giai đoạn 2021 - 2025, gắn với Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.

"Cầu nối" đưa sản phẩm ra thế giới

"Cầu nối" đưa sản phẩm ra thế giới

Tại chợ Sa Pa, những năm gần đây, việc áp dụng các hình thức kinh doanh online đã không còn là điều mới mẻ. Tuy nhiên, điều đặc biệt là sự xuất hiện của các tiểu thương đến từ Lào và Thái Lan, những người không chỉ nhập khẩu sản phẩm mà còn tham gia vào quá trình bán hàng online qua livestream.

Khi người Việt "chạm" vào nền kinh tế không tiền mặt

Khi người Việt "chạm" vào nền kinh tế không tiền mặt

Từ chiếc điện thoại, người Việt giờ có thể “chạm” để thanh toán mọi thứ, từ cà phê buổi sáng, vé xe buýt hay hóa đơn điện nước. Công nghệ NFC, mã QR và ví điện tử đang tái định hình hành vi chi tiêu, đưa Việt Nam tiến nhanh vào kỷ nguyên thanh toán thông minh, nơi tiện lợi và an toàn trở thành tiêu chuẩn mới của cuộc sống số.

Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam cao chưa từng có

Kim ngạch xuất khẩu rau quả Việt Nam cao chưa từng có

Tháng 9, ngành rau quả Việt Nam ghi nhận một cột mốc lịch sử khi kim ngạch xuất khẩu đạt gần 1,3 tỷ USD - mức cao nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu sầu riêng - loại trái cây vua đang giữ vai trò “đầu tàu”, góp phần đưa ngành rau quả tiến sát kỷ lục mới và mở ra triển vọng cán mốc 8 tỷ USD ngay trong năm nay.

fb yt zl tw