Xây dựng dữ liệu cho mật ong Việt Nam

Việc chưa có dữ liệu nghiên cứu về thành phần hóa, lý, sinh trong mật ong nội địa khiến các sản phẩm này khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Mật ong của Việt Nam sẽ được định vị theo từng loại dựa trên dữ liệu chung do nhóm nghiên cứu đưa ra.

Mật ong của Việt Nam sẽ được định vị theo từng loại dựa trên dữ liệu chung do nhóm nghiên cứu đưa ra.

Việc chưa có dữ liệu nghiên cứu về thành phần hóa, lý, sinh trong mật ong nội địa khiến các sản phẩm này khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các nhà khoa học đã tiến hành xây dựng dữ liệu để gia tăng giá trị cho mật ong trong nước.

Cần xây dựng thương hiệu

ThS Phạm Trí Nhựt, Trung tâm Phát triển Khoa học và Công nghệ Trẻ TPHCM và cộng sự vừa nghiên cứu phân tích và đánh giá cơ sở dữ liệu về tính chất hóa lý, thành phần hóa học, hoạt tính sinh học của một số sản phẩm mật ong trên thị trường Việt Nam.

Mật ong là một sản phẩm tự nhiên phức tạp do ong sản xuất từ mật hoa hoặc cây và dịch tiết thực vật. Từ thời xa xưa, mật ong được sử dụng như một chất làm ngọt cũng như được làm thuốc chữa bệnh.

Ngày nay, mật ong càng được sử dụng rộng rãi hơn để thay thế đường trong bánh kẹo, các sản phẩm bánh mì và được thêm vào nhiều loại thực phẩm khác nhau như xúc xích, chả cá… để kéo dài thời hạn sử dụng, tăng cường hoạt tính sinh học của chúng.

ThS Phạm Trí Nhựt cho biết, theo tiêu chuẩn Việt Nam mật ong tự nhiên được phân loại theo nguồn gốc thực vật gồm: Mật ong hoa, mật ong dịch lá và mật ong hỗn hợp. Trong đó, mật ong hoa được chia thành 2 loại là mật ong đơn hoa (hoa nhãn, vải, bạch đàn, táo, cỏ lào...) và mật ong đa hoa (gồm một số loại như mật ong vải nhãn, chôm chôm - cà phê, hoa rừng...).

Mật ong dịch lá là mật ong do ong khai thác từ mật của dịch lá, búp non của cây (như mật ong cao su, mật ong đay...). Mật ong hỗn hợp là mật ong do ong khai thác từ cả mật của dịch lá và mật của hoa (ví dụ như mật ong cao su - vải, cà phê - bạch đàn - táo - đay).

Ở Việt Nam, trải dài từ Bắc vào Nam, tùy thuộc vào đặc điểm thực vật từng địa phương, các loại mật ong nổi bật được ghi nhận như mật ong hoa nhãn, cà phê, vải, bạc hà, dừa, cao su, tràm, chôm chôm, sú vẹt, lá keo… Thế nhưng ngành công nghiệp nuôi ong lấy mật chỉ đang trong giai đoạn sơ khởi, do chưa thể khai thác hết giá trị của mật ong, mà chỉ tập trung phát triển những nguồn mật đã được chứng minh là có hiệu quả.

“Mặc dù có sản lượng xuất khẩu mật ong lớn nhưng đa phần giá thành của mật ong Việt Nam rất thấp so với các nước trên thế giới. Hơn nữa, mật ong Việt Nam thường xuyên gặp các vấn đề về chất lượng sản phẩm, điển hình như hàm lượng nước, HMF, tạp chất.

Ngoài ra, việc chưa có những dữ liệu nghiên cứu về thành phần hóa, lý, sinh trong mật ong nội địa cũng là một trong những nguyên nhân khiến các sản phẩm này khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Các sản phẩm mật ong có giá trị xuất khẩu cao trên thế giới đều là những thương hiệu có chỉ dẫn địa lý rõ ràng và chứng minh được sự khác biệt hay đặc điểm nổi bật so với các sản phẩm khác”, ThS Phạm Trí Nhựt chia sẻ.

Dữ liệu đầu tiên về mật ong tại Việt Nam

ThS Phạm Trí Nhựt và cộng sự đã đánh giá và cung cấp bộ dữ liệu chi tiết về các thông số quan trọng của các loại mật ong tại Việt Nam. Các dữ liệu được thu thập, sau đó phân tích bằng phương pháp định tính và định lượng (UV-Vis, UHPLC).

Sau đó, tiến hành xử lý thống kê theo mô hình đánh giá tương quan Pearson và phân tích thành phần chính (PCA) để đưa ra những kết luận đáng tin cậy. Đó là mối tương quan giữa các chỉ tiêu chất lượng, hoạt tính sinh học, thành phần hóa học đối với nguồn gốc thực vật và vị trí địa lý của các loại mật ong.

Nghiên cứu được tiến hành với 30 mẫu mật ong thương mại (gồm các loại mật ong hoa: Nhãn, cà phê, bạc hà, vải, dừa, tràm, chôm chôm, sú vẹt, keo, cao su) được mua từ các nhà cung cấp khác nhau. Mật ong Manuka được sử dụng làm mẫu đối chứng để so sánh.

Mật ong Manuka có nguồn gốc từ New Zealand. Manuka là một loại hoa màu trắng thuần khiết. Đây là loại mật được tạo ra bởi những con ong thụ phấn cho hoa Leptospermum scoparium (còn gọi là cây bụi Manuka), được thu hoạch trực tiếp từ các tổ ong trong khoảng từ tháng 12 - 3 hàng năm. Mật ong Manuka có độ nhớt rõ rệt cùng với màu kem sẫm đến nâu sẫm đặc trưng.

Sau quá trình thực hiện, các kết quả nghiên cứu đã tạo thành bộ cơ sở dữ liệu đầu tiên về các thông số chất lượng và an toàn, thành phần hóa thực vật, khả năng chống oxy hóa, cũng như hoạt tính kháng khuẩn của một số loại mật ong thương mại tại Việt Nam.

“Theo đó, hầu hết các loại mật ong được phân tích đều có những chỉ tiêu chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (Codex Alimentarus) và tiêu chuẩn Việt Nam.

Sự hiện diện của những hợp chất có hoạt tính sinh học như polyphenols, flavonoid cho thấy được mối liên hệ giữa các thành phần này với hoạt tính kháng oxy hóa (xét nghiệm DPPH và ABTS) và kháng khuẩn (E. coli, S. aureus P. aeruginosa) của mật ong.

Bằng phương pháp phân tích thành phần chính, nghiên cứu đã chỉ ra những thành phần polyphenol có khả năng sử dụng để làm dấu ấn xác định nguồn gốc đối với một số loại mật ong”, ThS Phạm Trí Nhựt chia sẻ.

Kết quả nghiên cứu về cảm quan và hoạt tính sinh học của đề tài cho thấy, các tỉnh khu vực chuyên canh cây ăn quả có nhiều lợi thế về sản xuất mật ong chất lượng cao. Kết quả của đề tài sẽ là dữ liệu quan trọng để tiến đến xây dựng chỉ dẫn địa lý cho các loại mật ong này trong tương lai.

Báo Giáo dục & Thời đại

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Văn Bàn đẩy mạnh thu hút đầu tư

Văn Bàn đẩy mạnh thu hút đầu tư

Xã Văn Bàn đã xây dựng và hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2035, tầm nhìn 2045 với tư duy “1 trục - 2 đột phá - 3 vùng - 4 trụ cột - 5 giải pháp” làm xuyên suốt định hướng. Trong đó, Quốc lộ 279 được định vị là trục động lực chính, kết nối Lai Châu - Văn Bàn - Bảo Hà - IC16 - Lào Cai, mở ra hành lang công nghiệp - thương mại - logistics liên xã và tạo nền móng cho tăng trưởng dài hạn.

Bản Lầu tập trung đẩy mạnh phát triển các cây trồng chủ lực

Bản Lầu tập trung đẩy mạnh phát triển các cây trồng chủ lực

Những năm gần đây, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đang mở ra cơ hội thoát nghèo bền vững cho nhiều hộ dân xã Bản Lầu. Không còn phụ thuộc vào cây ngô, cây sắn như trước, việc mạnh dạn đưa các cây trồng chủ lực như chè, dứa, chuối vào sản xuất, hình thành những mô hình kinh tế hiệu quả.

Làm giàu từ mô hình “vườn - ao - chuồng”

Làm giàu từ mô hình “vườn - ao - chuồng”

Trong phong trào phát triển kinh tế nông nghiệp tại phường Nam Cường, tỉnh Lào Cai, mô hình “vườn - ao - chuồng” của cựu chiến binh Trần Đức Mạc ở tổ dân phố Hồng Thái được xem là một trong những điển hình tiêu biểu, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm và nghị lực vượt khó của người lính. Hơn bốn thập niên gắn bó với mảnh đất này, ông đã từng bước gây dựng cơ nghiệp từ bàn tay trắng, vươn lên làm giàu chính đáng, đồng thời tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động địa phương.

Nông dân Trấn Yên phát huy vai trò chủ thể trong phát kinh tế nông thôn

Nông dân Trấn Yên phát huy vai trò chủ thể trong phát kinh tế nông thôn

Thời gian qua, Hội Nông dân xã Trấn Yên đã đổi mới nội dung và phương thức hoạt động Hội, đặc biệt, đẩy mạnh phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; triển khai đồng bộ các giải pháp, ứng dụng công nghệ hiện đại, tăng cường hoạt động quảng bá sản phẩm và hỗ trợ hội viên vay vốn... Qua đó, giúp hội viên từng bước phát huy vai trò chủ thể trong phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Hoàn thành gần 50% Dự án đường vành đai 2 xã Bắc Hà

Hoàn thành gần 50% Dự án đường vành đai 2 xã Bắc Hà

Dự án đường vành đai 2 xã Bắc Hà là một trong những công trình trọng điểm được địa phương ưu tiên chỉ đạo thực hiện, bởi khi hoàn thành sẽ góp phần hoàn thiện mạng lưới giao thông kết nối, phục vụ nhu cầu đi lại, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đến hết tháng 11/2025, dự án đã đạt gần 50% khối lượng thi công; nhiều hạng mục tiếp tục được triển khai với sự vào cuộc đồng bộ của các ngành và sự phối hợp của Nhân dân.

Nỗ lực đưa nước sạch đến thôn, bản

Nỗ lực đưa nước sạch đến thôn, bản

Hiện nay, tại nhiều thôn, bản vùng cao của tỉnh, câu chuyện về nước sạch vẫn còn là nỗi băn khoăn thường trực. Địa hình bị chia cắt, khí hậu khắc nghiệt, mùa khô khan hiếm nước kéo dài, mùa mưa lại đối mặt nguy cơ ô nhiễm do sạt lở… khiến việc tiếp cận nguồn nước sạch trở thành thách thức lớn với người dân. Trong bối cảnh đó, nỗ lực của chính quyền và sự chuyển biến trong nhận thức của người dân đã góp phần tạo ra thay đổi tích cực, dù chặng đường phía trước vẫn còn nhiều khó khăn.

Nông dân Lào Cai tích cực thi đua lao động, sản xuất

Nông dân Lào Cai tích cực thi đua lao động, sản xuất

Hướng đến Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, phong trào thi đua lao động, sản xuất đang diễn ra sôi nổi khắp các địa phương. Những vườn cây trĩu quả, những con đường sạch - đẹp, những mô hình kinh tế hiệu quả là minh chứng sinh động cho tinh thần thi đua của nông dân.

Mỏ Vàng: Nỗ lực đưa điện về bản

Mỏ Vàng: Nỗ lực đưa điện về bản

Điện lưới quốc gia không chỉ là nguồn năng lượng mà còn là biểu tượng của tiến bộ, văn minh, là động lực thắp sáng tri thức và cuộc sống. Tại vùng đất còn nhiều khó khăn nhưng mang cái tên ngược lại - Mỏ Vàng, cấp ủy và chính quyền địa phương đang nỗ lực thực hiện mục tiêu đưa điện lưới quốc gia về 7 thôn trên địa bàn.

Phường Trung Tâm phát triển thương hiệu bưởi da xanh

Phường Trung Tâm phát triển thương hiệu bưởi da xanh

Bưởi da xanh đang là cây trồng mũi nhọn, góp phần nâng cao thu nhập và hình thành thương hiệu nông sản đặc trưng của phường Trung Tâm, tỉnh Lào Cai. Những năm gần đây, địa phương đẩy mạnh mở rộng diện tích, chuẩn hóa quy trình sản xuất và kết nối thị trường, tạo động lực quan trọng phát triển kinh tế nông nghiệp.

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Púng Luông giữ vững thương hiệu chè Shan tuyết

Tại xã Púng Luông, chè Shan tuyết từ lâu đã là sản phẩm nổi tiếng của địa phương. Khi được chứng nhận OCOP, cây chè trở thành nông sản chủ lực, tạo thương hiệu và sinh kế bền vững giúp người dân vùng cao vươn lên thoát nghèo. Để giữ vững và nâng tầm thương hiệu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, Púng Luông đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, từ duy trì vùng nguyên liệu, cải tiến quy trình sản xuất đến mở rộng thị trường tiêu thụ.

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

GCAP – Giải pháp hiện thực hóa tầm nhìn đô thị xanh tại Việt Nam

Trong bối cảnh các đô thị nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức về môi trường và biến đổi khí hậu, việc xây dựng và triển khai các kế hoạch hành động đô thị xanh được coi là kim chỉ nam, định hướng quan trọng, đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững.

fb yt zl tw