Việc giữ bí mật thông tin khách hàng tiếp tục là một trong những yêu cầu cơ bản, đặc biệt quan trọng đối với luật sư khi thực hiện chức năng nghề nghiệp.
![]() |
Luật sư Triệu Viết Hanh. |
Từ những năm đổi mới, nhất là từ năm 2002, do thay đổi Hiến pháp, Luật Tố tụng Hình sự và Luật Tổ chức các cơ quan tư pháp... ở nước ta, nghĩa vụ giữ bí mật thông tin khách hàng đã được đề cập tại Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987; Pháp lệnh Luật sư năm 2001 và Quy tắc mẫu đạo đức nghề nghiệp luật sư do Bộ Tư pháp ban hành kèm theo Quyết định số 356 ngày 5/8/2002. Trong khi đó, Điều 22, Bộ luật Hình sự quy định: "Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm". Như vậy, chế định không tố giác tội phạm tại Bộ luật Hình sự hiện hành không có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với luật sư, trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính khách hàng của luật sư đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện.
Thực tế là trong một số vụ án hình sự, luật sư phải đối diện với hai vấn đề nan giải. Một là với tư cách là một công dân trước thông tin về tội phạm hoặc trước việc không tố giác tội phạm mà mình biết được trong quá trình thực hiện dịch vụ pháp lý. Hai là, ngay cả khi đã kết thúc dịch vụ đó, thì luật sư có nghĩa vụ tố giác tội phạm hay không? Nếu không tố giác tội phạm thì vi phạm pháp luật về hình sự quy định nghĩa vụ tố giác tội phạm của công dân (không loại trừ luật sư). Trong khi pháp luật về luật sư, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp lại đòi hỏi luật sư không được tiết lộ thông tin khách hàng, trong đó có cả những thông tin về tội phạm.
Trong quá trình xây dựng Bộ luật Hình sự (sửa đổi) lần này, đã có nhiều ý kiến về việc nên hay không nên bổ sung quy định người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp không tố giác tội phạm do chính người mà mình bào chữa đã thực hiện hoặc đã tham gia thực hiện. Đây là vấn đề hết sức nhạy cảm, cần cân nhắc thận trọng vì nghĩa vụ của luật sư trước hết phải bảo vệ pháp chế. Luật sư cũng có trách nhiệm tố giác tội phạm mà mình biết được như các công dân khác. Do đó không nên loại trừ trách nhiệm hình sự đối với luật sư trong trường hợp này. Làm như vậy mới đạt được các yêu cầu là bảo đảm tính thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật, làm rõ được trách nhiệm hình sự của luật sư trong Bộ luật Hình sự (sửa đổi).
Luật sư Triệu Viết Hanh, Chủ tịch Hội Luật gia tỉnh