Sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ

Cách đây 70 năm, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.

Thắng lợi vĩ đại nêu trên được bắt nguồn từ truyền thống lịch sử của dân tộc anh hùng; dưới sự lãnh đạo của Đảng, bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh con người Việt Nam tiếp tục được khẳng định với cây cột mốc bằng vàng của lịch sử - Chiến thắng Điện Biên Phủ - Biểu tượng sinh động sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

Đảng ta đã huy động được lực lượng lớn dân công thồ hàng bằng xe đạp phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Đảng ta đã huy động được lực lượng lớn dân công thồ hàng bằng xe đạp phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

Một là, đường lối chiến tranh nhân dân đúng, sáng tạo: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, chính nghĩa, trong đó sức mạnh chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ. Nét đặc sắc của chiến dịch Điện Biên Phủ là sự động viên, tổ chức lực lượng toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện.

Đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phù hợp với truyền thống đấu tranh của dân tộc; tạo nên thế trận “thiên la địa võng”, cả nước đánh giặc, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi xóm làng là một pháo đài; giặc đi đến đâu cũng bị đánh, đánh giặc bằng mọi vũ khí. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc”(1).

Do tương quan lực lượng chênh lệch, nhất là về tiềm lực kinh tế, quân sự, để bảo đảm tiến hành chiến tranh nhân dân thắng lợi, Đảng ta nhạy bén và kiên quyết thực hiện phương châm vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Nhờ đó, tiềm lực của chiến tranh nhân dân đã không ngừng lớn mạnh, tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành toàn thắng trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Hai là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân vững mạnh, rộng khắp, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc: Thấu triệt nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về đấu tranh vũ trang, tổ chức quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích vững mạnh, rộng khắp. Bước vào chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, lực lượng chủ lực phát triển cấp đại đoàn và đến chiến dịch Điện Biên Phủ, ta có thêm đại đoàn pháo binh, phòng không. Với sự lớn mạnh vượt bậc đó, ta có điều kiện mở các chiến dịch tiến công chiến lược quy mô lớn, có tính quyết định.

Phân tích, đánh giá đúng tình hình địch-ta, Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy hạ quyết tâm “Tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên Mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”(2). Trong trận quyết chiến chiến lược này, ta tập trung lực lượng bộ đội chủ lực tham gia, gồm: ba đại đoàn bộ binh (308, 312 và 316), Đại đoàn công pháo 351, một trung đoàn thuộc Đại đoàn 304 và một số đơn vị binh chủng; lực lượng phục vụ chiến dịch rất lớn, gồm: 6.280 ô-tô vận tải, 21 nghìn xe đạp thồ, 251 nghìn dân công...

Thực tiễn chiến dịch Điện Biên Phủ cho thấy, lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân được tổ chức chặt chẽ, rộng khắp, do đó, quân và dân ta đã lập nên những kỳ tích phi thường, đặc biệt là khi ta chuyển phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, khiến quân địch đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác và sau cùng, ngày 7/5/1954, quân ta giành toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ba là, phát huy sức mạnh của các lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam: Để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược, bằng quyết tâm và lòng dũng cảm, sức mạnh đoàn kết quân dân, hàng vạn dân công, thanh niên xung phong, bộ đội công binh bất kể ngày đêm, đã tích cực, khẩn trương hoàn thành một khối lượng công việc tưởng như không thể. Chỉ hơn ba tháng (12/1953-3/1954), ta đã hoàn thành việc tu sửa và mở các Đường số 41, Đường số 13, đường từ Tuần Giáo lên Điện Biên Phủ, là những trục đường chính của tuyến vận tải cơ giới, với tổng chiều dài khoảng 300 km.

Trong toàn chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân ta đã “đóng góp 25.560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền”(3). Đánh giá về sức mạnh của dân tộc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chưa bao giờ trong suốt mấy năm kháng chiến, dân ta đã góp nhiều công sức như trong Đông Xuân 1953-1954 để chi viện cho quân đội đánh giặc… Bọn đế quốc… không bao giờ đánh giá được sức mạnh của cả một dân tộc, sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể khắc phục được tất cả mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ địch”(4).

Trong toàn chiến dịch Điện Biên Phủ, nhân dân ta đã “đóng góp 25.560 tấn gạo, 226 tấn muối, 1.909 tấn thực phẩm, 26.453 lượt dân công, 20.991 xe đạp thồ, 1.800 mảng nứa, 756 xe thô sơ, 914 con ngựa thồ và 3.130 chiếc thuyền.

Cùng với những đóng góp tích cực của nhân dân cả nước về lương thực, thực phẩm, lực lượng dân công các địa phương được huy động. Nhà báo Giuyn Roa (Đại tá Quân đội Pháp) viết: “... Không phải viện trợ của Trung Quốc đánh bại tướng Nava mà đó là những chiếc xe đạp Pơgiô thồ 200-300 kg hàng, do những dân công ăn không no, ngủ trên những tấm ni-lông trải ngay trên mặt đất. Tướng Nava bị đánh bại bởi trí thông minh và quyết tâm chiến thắng của đối phương”(5).

Bốn là, sự phối hợp tích cực, hiệu quả của các chiến trường với Chiến dịch Điện Biên Phủ: Trước khi chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra, với đường lối kháng chiến đúng, sáng tạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta đã từng bước phá tan kế hoạch quân sự của Nava. Đặc biệt, thắng lợi của quân ta trong trận tập kích sân bay Gia Lâm (4/3/1954) và tập kích sân bay Cát Bi (7/3/1953) đã gây tiếng vang lớn, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta trên các mặt trận.

Tiếp đó, khi trận quyết chiến chiến lược diễn ra, các chiến trường trong cả nước đều tích cực “chia lửa” thi đua chiến đấu với Điện Biên Phủ.

Tại Nam Bộ, khi chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 13/3/1954, Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo dốc toàn lực đẩy mạnh nhịp độ tiến công để phối hợp chiến trường chính Điện Biên Phủ. Các tiểu đoàn chủ lực của các phân liên khu và tỉnh kết hợp bộ đội địa phương tiến công vào vùng địch hậu ở các tỉnh và các trục giao thông quan trọng như Quốc lộ số 1, số 13, số 14, các tuyến đường sắt Sài Gòn-Phan Thiết, Sài Gòn-Lộc Ninh.

Tại tỉnh Bình-Trị-Thiên, hai ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn, ngày 15/3/1954, Bộ Tư lệnh Liên khu 4 chỉ thị cho Bình-Trị-Thiên tích cực phối hợp chiến dịch Điện Biên Phủ, đánh mạnh trên đường giao thông, tích cực chống càn quét, chống bắt lính nhằm kéo giãn lực lượng địch.

Tại miền Nam Trung Bộ(6), Liên khu ủy, Bộ Tư lệnh Liên khu 5 chủ trương tập trung lực lượng phát triển vào Nam Tây Nguyên, đánh mạnh trên Đường 14, Đường 7, đặc biệt là trên Đường 19, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích sau lưng địch…

Tại Bắc Bộ, phối hợp chiến trường Điện Biên Phủ, quân và dân các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên mở nhiều đợt “tổng công kích” đánh phá Đường số 5 và các tuyến vận chuyển chiến lược của địch. Ở Hà Nội, thực hiện chủ trương đẩy mạnh công tác địch vận của Thành ủy, ở sân bay Bạch Mai, chỉ trong năm ngày, có tới 1.200 binh lính đào ngũ(7).

Kết quả hoạt động của các chiến trường phối hợp có ý nghĩa quan trọng, khiến địch khó khăn, bị động trong việc bổ sung lực lượng ứng cứu, tạo điều kiện để quân ta tập trung siết chặt vòng vây lửa, tiêu diệt quân địch ở Điện Biên Phủ.

Hiện nay, trước bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo, đặt ra yêu cầu phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, trong đó nghiên cứu, vận dụng sáng tạo bài học phát huy sức mạnh chiến tranh nhân dân Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.534.

(2) Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Điện Biên Phủ, Nxb QĐND, H, 1991 , tr.14.

(3) Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, Nxb QĐND, H, 1993, tr.305.

(4) Võ Nguyên Giáp, Chiến tranh giải phóng và chiến tranh giữ nước, Nxb QĐND, H, 1974, tr.158-159.

(5) Lịch sử hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, Tập 1, Sđd, tr.284.

(6) Theo lệnh của Nava, ngày 12/3/1954, tướng Đờ Bô-pho huy động 40 tiểu đoàn mở tiếp cuộc hành quân mang tên Át-lăng 2 đánh chiếm Quy Nhơn và Bình Định.

(7) Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, Tập V, Nxb QĐND, H, 1992, tr. 234.

nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Bài cuối: Ở đâu khó, có đại biểu hội đồng nhân dân

Dấu ấn những đại biểu dân cử nơi “tâm lũ” Bài cuối: Ở đâu khó, có đại biểu hội đồng nhân dân

Trong các bài viết trước, chúng tôi đã kể câu chuyện về những đại biểu hội đồng nhân dân như bà Trần Hoài Thu, ông Sùng A Siềng, bà Đặng Thị Sinh, họ đều là tấm gương hết lòng vì Nhân dân nơi “tâm lũ”. Trên hành trình thực hiện loạt phóng sự này, chúng tôi còn được gặp gỡ nhiều đại biểu dân cử trong vùng thiên tai. Câu chuyện từ thực tế đời sống, việc làm ý nghĩa của các đại biểu và tình cảm bà con dành cho họ đều khẳng định một điều: Ở đâu khó, có đại biểu hội đồng nhân dân.

Bài 3: Cán bộ "3 cùng" nơi "rốn lũ" Nậm Tông

Dấu ấn những đại biểu dân cử nơi “ tâm lũ” Bài 3: Cán bộ "3 cùng" nơi "rốn lũ" Nậm Tông

“Nơi chốn mình từng đi về trong suốt hàng chục năm qua bỗng một ngày tan hoang. Những người dân bản thân quen giờ chỉ có thể nhìn lại trong bức ảnh chụp vào Ngày hội Đại đoàn kết một năm về trước… Xót xa, đau lòng lắm! Mình phải biến đau thương thành hành động để giúp đồng bào” là những lời tâm sự nghẹn ngào của bà Đặng Thị Sinh, Phó Chủ tịch HĐND xã Nậm Lúc, huyện Bắc Hà về trận lũ kinh hoàng vừa quét qua mảnh đất này.

Quyết tâm chính trị cao nhất sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả

Quyết tâm chính trị cao nhất sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả

Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, việc tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng tinh gọn về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, phải thực hiện với quyết tâm cao nhất, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị.

Bài 2: Người gieo khát vọng ấm no trên vùng lũ A Lù

Dấu ấn những đại biểu dân cử nơi “ tâm lũ” Bài 2: Người gieo khát vọng ấm no trên vùng lũ A Lù

Ngải Thầu tiếng Mông nghĩa là “mũi đá”, trước đây là một xã độc lập nhưng hiện nay đã được sáp nhập vào xã A Lù, huyện Bát Xát. Ở mảnh đất biên giới cheo leo trên sườn núi ấy, ông Sùng A Siềng (dân tộc Mông) là đại biểu HĐND xã A Lù, Bí thư Chi bộ thôn Phìn Chải 1 đã không quản ngại khó khăn, vất vả, tích cực tuyên truyền di chuyển các hộ ra khỏi khu vực nguy hiểm và hỗ trợ người dân vượt qua thiên tai sau cơn bão số 3.

Bài 1: Nữ đại biểu vì dân nơi "tâm lũ" Làng Nủ

Dấu ấn những đại biểu dân cử nơi “tâm lũ” Bài 1: Nữ đại biểu vì dân nơi "tâm lũ" Làng Nủ

Tôi đã ấp ủ bài viết về bà sau cuộc gặp ở Làng Nủ, xã Phúc Khánh (huyện Bảo Yên) - nơi vừa chịu bao đau thương do cơn lũ lịch sử gây ra. Người đàn bà ở tuổi 55, dáng người nhỏ bé, quần xắn móng lợn, lúc nào cũng tất tả ngược xuôi nơi “tâm lũ” Làng Nủ. Suốt 20 năm làm Trưởng Ban Công tác Mặt trận thôn Làng Nủ, 20 năm làm đại biểu HĐND xã Phúc Khánh, bà Trần Hoài Thu luôn được bà con quý trọng, mến yêu. Trong cơn lũ lịch sử vừa qua, người đại biểu ấy không một ngày ngơi nghỉ vì đồng bào vùng lũ.

Đại biểu HĐND 2 cấp tiếp xúc cử tri tại thành phố Lào Cai

Đại biểu HĐND 2 cấp tiếp xúc cử tri tại thành phố Lào Cai

Sáng 19/11, tại Trung tâm Hội nghị thành phố Lào Cai, đại biểu HĐND tỉnh và đại biểu HĐND thành phố Lào Cai có buổi tiếp xúc cử tri các phường Cốc Lếu, Duyên Hải, Kim Tân, Bắc Cường, Lào Cai và các xã Vạn Hòa, Đồng Tuyển, Cốc San. Đây là cuộc tiếp xúc trước kỳ họp thường lệ cuối năm 2024 HĐND tỉnh và HĐND thành phố Lào Cai, nhiệm kỳ 2021 - 2026.

Lịch sử dân tộc Việt Nam hào hùng trong chương trình “Cùng nhau giữ nước”

Lịch sử dân tộc Việt Nam hào hùng trong chương trình “Cùng nhau giữ nước”

Tối 18/11, tại Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, UBND TP Hà Nội, giao Trung tâm Phát thanh - Truyền hình Quân đội và các cơ quan, đơn vị tổ chức Chương trình truyền hình trực tiếp chính luận nghệ thuật “Cùng nhau giữ nước”.

Đoàn công tác tỉnh Lào Cai dự Đại hội các thành phố hữu nghị quốc tế Trung Quốc năm 2024

Đoàn công tác tỉnh Lào Cai dự Đại hội các thành phố hữu nghị quốc tế Trung Quốc năm 2024

Sáng 18/11, Đoàn công tác tỉnh Lào Cai do đồng chí Vũ Văn Cài, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh - Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức hữu nghị tỉnh làm Trưởng đoàn đã đến thành phố Côn Minh, Thủ phủ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) dự Đại hội các thành phố hữu nghị quốc tế Trung Quốc năm 2024.

fbytzltw