Sẽ không phải đăng ký hộ kinh doanh nếu làm dịch vụ có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống?

Tại dự thảo Nghị định về hộ kinh doanh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất đối tượng làm dịch vụ có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống sẽ không phải đăng ký hộ kinh doanh.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định về hộ kinh doanh.

Về quyền thành lập và nghĩa vụ đăng ký hộ kinh doanh Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP quy định như sau:

“1. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.

2. Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định mức thu nhập thấp áp dụng trên phạm vi địa phương”.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, quy định nêu trên cần làm rõ để thống nhất cách hiểu và áp dụng, tránh các khó khăn, vướng mắc như trong thời gian vừa qua. Các nội dung cần làm rõ cụ thể là:

- Địa vị pháp lý của Hộ kinh doanh trong nền kinh tế? - Căn cứ để xác định các thành viên hộ gia đình? - Đối tượng thuộc khoản 2 Điều 79 có phải là hộ kinh doanh hay không? Nếu không thì trường hợp họ có nhu cầu thì có thể đăng ký thành lập hộ kinh doanh được không?

- UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào đâu để quy định mức thu nhập thấp?

- Các đối tượng không thuộc khoản 2 Điều 79, nếu không muốn thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác thì có bắt buộc phải đăng ký thành lập hộ kinh doanh khi hoạt động kinh doanh không?

Hiện có 02 phương án đề xuất sửa đổi, bổ sung quyền thành lập và nghĩa vụ đăng ký hộ kinh doanh, cụ thể như sau:

Phương án 1:

Giữ nguyên quy định về các trường hợp không phải đăng ký hộ kinh doanh theo tinh thần tại khoản 2 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP nhưng làm rõ các đối tượng không phải đăng ký kinh doanh (sử dụng toàn bộ quy định về các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16/3/2007 của Chính phủ về cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh); đồng thời, bổ sung quy định về căn cứ xác định mức thu nhập thấp.

Đề xuất sửa đổi Điều 79 thành:

“1. Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.

2. Các trường hợp đối tượng sau đây không phải đăng ký hộ kinh doanh, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, không phải đăng ký hộ kinh doanh bao gồm:

a) Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối;

b) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm cả việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thương nhân được phép kinh doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;

c) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không có địa điểm cố định;

d) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nước uống (hàng nước) có hoặc không có địa điểm cố định;

đ) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến để bán cho người mua buôn hoặc người bán lẻ;

e) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe, trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc không có địa điểm cố định;

g) Hoạt động kinh doanh thời vụ;

h) Làm dịch vụ có doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống.

3. Trường hợp có nhu cầu thành lập hộ kinh doanh, các đối tượng tại khoản 4 Điều này được đăng ký hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định này.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ưu điểm của phương án 1 là hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về bản chất pháp lý của hộ kinh doanh. Theo thông lệ quốc tế, mô hình kinh doanh có bản chất tương tự với mô hình hộ kinh doanh ở nước ta (do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của cá nhân đó với hoạt động kinh doanh) được xác định là cá nhân kinh doanh (có thể được gọi với những tên gọi khác nhau như doanh nghiệp một chủ, doanh nghiệp cá thể - sole proprietorship, sole trader).

+ Về mặt thực tiễn tại Việt Nam, qua ghi nhận ý kiến của một số quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội (nơi trực tiếp xử lý công tác cấp đăng ký hộ kinh doanh và quản lý hộ kinh doanh), nhiều quận, huyện cho biết đa số hộ kinh doanh thành lập tại địa bàn là do một cá nhân thành lập và làm chủ, rất ít 15 trường hợp hộ kinh doanh do các thành viên hộ gia đình thành lập. Theo con số thống kê trong tháng 7/2023, trên phạm vi cả nước có hơn 52.417 hộ kinh doanh đăng ký thành lập mới, trong đó có 52.317 hộ kinh doanh do cá nhân thành lập và làm chủ (chiếm 99,8%) và chỉ có 110 hộ kinh doanh do các thành viên hộ gia đình thành lập (chiếm 0,2%).

Ban soạn thảo cho rằng, vấn đề này cần nghiên cứu kỹ hơn và có đánh giá tác động trước khi đưa ra quy định về địa vị pháp lý của hộ kinh doanh để tránh xáo trộn đối với khu vực này. Do vậy kiến nghị giữ nguyên quy định hiện nay tại khoản 1 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP và đề xuất Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục nghiên cứu, làm rõ nội dung bản chất pháp lý của hộ kinh doanh.

+ Hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau về việc có nên bỏ quy định tại khoản 2 Điều 79 hay không. Do còn nhiều ý kiến chưa thống nhất, cần thiết giữ lại quy định hiện nay để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung đánh giá nhằm hoàn thiện quy định trong thời gian tới. Việc giữ lại quy định tại khoản 2 Điều 79 trong thời gian trước mắt là cần thiết vì những lý do sau:

Một là, quy định này vẫn cần thiết để người dân có căn cứ xác định trường hợp nào không phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh. Nếu bỏ quy định này, sẽ dẫn tới có nhiều cách hiểu khác nhau: (i) cách hiểu thứ nhất là các trường hợp trước kia không phải thực hiện đăng ký hộ kinh doanh thì nay sẽ thuộc trường hợp bắt buộc phải đăng ký hộ kinh doanh hoặc (ii) cách hiểu thứ hai là: người dân có quyền lựa chọn đăng ký hay không đăng ký hộ kinh doanh do pháp luật chỉ quy định “quyền” đăng ký thành lập hộ kinh doanh. Như vậy, người dân có quyền đăng ký hoặc không đăng ký hộ kinh doanh, có thể dẫn tới khả năng số lượng hộ kinh doanh sẽ giảm so với hiện tại (do hiện tại chỉ có quy định về “quyền” đăng ký, không có quy định về “nghĩa vụ” đăng ký).

Hai là, quy định tại khoản 2 Điều 79 xuất phát từ các quy định có từ lâu và được kế thừa qua các giai đoạn lịch sử, lần đầu tiên được quy định tại Nghị định số 66-HĐBT ngày 02/3/1992 của Hội đồng Bộ trưởng về cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định quy định trong Nghị định số 221- HĐBT ngày 23/7/1991. Trước khi bỏ quy định này ra khỏi khung pháp lý về đăng ký các chủ thể kinh doanh, cần tìm hiểu kỹ về lý do ra đời quy định này, sự cần thiết có quy định này trong bối cảnh hiện nay, tác động có thể có khi bỏ quy định này.

Ba là, khoản 3 Điều 2 Luật Thương mại quy định Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật Thương mại đối với cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh. Như vậy, pháp luật về thương mại phải dựa vào quy định của pháp luật đăng ký kinh doanh để xác định các đối tượng không được gọi là thương nhân, do đó, việc bãi bỏ quy định về đối tượng không phải đăng ký hộ kinh doanh có thể làm mất căn cứ để quy định về phạm vi kinh doanh của các đối tượng này.

Bốn là, theo kinh nghiệm quốc tế, ngay cả khi pháp luật đã có đầy đủ quy định cho các hình thức kinh doanh, vẫn có quy định loại trừ các trường hợp không phải đăng ký kinh doanh để phù hợp với thực tiễn.

Năm là, các ý kiến ủng hộ việc bỏ quy định tại khoản 2 Điều 79 cho rằng: quy định hiện nay rất khó thực hiện đối với trường hợp xác định “thu nhập thấp” và thực tế, nhiều địa phương không quy định mức thu nhập thấp; việc thống nhất quy định một mức thu nhập ấn định để chủ thể kinh doanh không phải đăng ký hộ kinh doanh không khả thi do điều kiện kinh tế-xã hội ở các địa phương rất khác nhau.

Sáu là, trên thực tế hiện nay, các cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện khi áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP chỉ vướng khi với việc xác định “thu nhập thấp”. Phương án 1 đã đưa ra giải pháp khắc phục vướng mắc hiện nay khi quy định rõ ràng các trường hợp không phải đăng ký hộ kinh doanh; bổ sung quy định về các trường hợp có “thu nhập thấp” không phải đăng ký hộ kinh doanh để thống nhất áp dụng trên phạm vi cả nước (căn cứ theo quy định về trường hợp không phải nộp thuế GTGT và không phải nộp thuế TNCN theo quy định pháp luật về thuế GTGT và thuế TNCN).

- Nhược điểm: Chưa giải quyết được triệt để các vấn đề còn vướng mắc về địa vị pháp lý đối với hộ kinh doanh. Vấn đề này sẽ tiếp tục được nghiên cứu, làm rõ khi xây dựng chính sách toàn diện đối với khu vực hộ kinh doanh trong thời gian tới.

Phương án 2:

Bỏ quy định về đối tượng không phải đăng ký hộ kinh doanh tại khoản 2 Điều 79 và sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan để làm rõ quyền thành lập và nghĩa vụ đăng ký hộ kinh doanh, cụ thể như sau:

Đề xuất sửa Điều 79 thành:

“1. Hộ kinh doanh là tổ chức không có tư cách pháp nhân, có trụ sở giao dịch, có tên riêng, do một cá nhân hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập nhằm mục đích kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ. Trường hợp các thành viên hộ 17 gia đình đăng ký hộ kinh doanh thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ kinh doanh. Cá nhân đăng ký hộ kinh doanh, người được các thành viên hộ gia đình ủy quyền làm đại diện hộ kinh doanh là chủ hộ kinh doanh.

2. Các thành viên hộ gia đình quy định tại khoản 1 Điều này là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

3. Các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật về thương mại có nhu cầu thành lập hộ kinh doanh thì thực hiện thủ tục đăng ký thành lập hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định này.

4. Các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không thuộc đối tượng không phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật về thương mại không bắt buộc phải đăng ký thành lập hộ kinh doanh trừ trường hợp hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa hộ kinh doanh mà không đăng ký”.

- Ưu điểm: + Xác định rõ hộ kinh doanh là tổ chức không có tư cách pháp nhân (theo quy định của Bộ luật Dân sự) do cá nhân và thành viên hộ gia đình thành lập nhằm mục đích kinh doanh.

+ Xác định rõ các thành viên hộ gia đình là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.

+ Không còn vướng mắc về căn cứ xác định mức thu nhập thấp.

+ Quy định rõ các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật về thương mại nếu có nhu cầu thành lập hộ kinh doanh thì thực hiện thủ tục đăng ký hộ kinh doanh theo quy định tại Nghị định này.

+ Quy định rõ các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không thuộc đối tượng không phải đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật về thương mại không bắt buộc phải đăng ký thành lập hộ kinh doanh.

- Nhược điểm: + Hiện còn quan điểm khác nhau về việc xác định hộ kinh doanh là cá nhân hay tổ chức không có tư cách pháp nhân. Đối với hộ kinh doanh được thành lập bởi các thành viên hộ gia đình thì Nghị định cũng quy định các thành viên này ủy quyền cho chủ hộ kinh doanh thực hiện các nghĩa vụ về thuế, các nghĩa vụ tài chính và các hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh. Do vậy, nếu xác định hộ kinh doanh là tổ chức không có tư cách pháp nhân sẽ không phản ánh đúng đặc điểm thực tế của hộ kinh doanh.

+ Việc quy định về đối tượng không phải đăng ký hộ kinh doanh tại Khoản 2 Điều 79 mang tính kế thừa lịch sử. Nếu không được tuyên truyền rộng rãi có thể dẫn đến tâm lý không yên tâm cho người dân khi hoạt động kinh doanh mà không đăng ký hộ kinh doanh.

+ Theo quy định tại Điều 6 Luật Thương mại thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Điều 7 Luật này quy định thương nhân có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật.

Việc quy định thành lập hộ kinh doanh là quyền và theo nhu cầu của cá nhân, thành viên hộ gia đình mà không phải là nghĩa vụ bắt buộc (trừ trường hợp hoạt động kinh doanh dưới danh nghĩa là hộ kinh doanh mà không đăng ký) đã bộc lộ khoảng trống pháp lý về thủ tục để thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh của các cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không thuộc đối tượng không phải đăng ký kinh doanh (trong trường hợp cá nhân đó không đăng ký thành lập doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh...để thực hiện hoạt động kinh doanh).

Do việc đăng ký kinh doanh của các cá nhân nêu trên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định này nên nếu lựa chọn phương án này thì Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu, đề xuất phương án đăng ký kinh doanh cho đối tượng là cá nhân kinh doanh.

Từ phân tích nêu trên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất lựa chọn Phương án 1.

Theo Báo điện tử Chính phủ null

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Kịp thời bố trí kinh phí chi trả chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức khi sắp xếp tổ chức bộ máy

Kịp thời bố trí kinh phí chi trả chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức khi sắp xếp tổ chức bộ máy

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 62/CĐ-TTg ngày 12/5/2025 về việc triển khai thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Chuẩn bị Lễ khởi công, khánh thành các dự án quy mô lớn và triển lãm thành tựu kinh tế - xã hội kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Chuẩn bị Lễ khởi công, khánh thành các dự án quy mô lớn và triển lãm thành tựu kinh tế - xã hội kỷ niệm 80 năm Quốc khánh

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 57/CĐ-TTg ngày 5/5/2025 về công tác chuẩn bị tổ chức Lễ khởi công, khánh thành các dự án, công trình quy mô lớn và chuẩn bị tổ chức triển lãm các thành tựu kinh tế - xã hội kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2025).

Toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân

Toàn văn Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân

Thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Với những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết sẽ tạo đòn bẩy giúp Khu vực kinh tế tư nhân phát triển, trở thành "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia".

Kết luận của Bộ Chính trị hướng dẫn xây dựng phương án nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập mới

Kết luận của Bộ Chính trị hướng dẫn xây dựng phương án nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập mới

Ngày 14/4/2025, thay mặt Bộ Chính trị, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Cẩm Tú ký ban hành Kết luận 150-KL/TW (Kết luận 150) của Bộ Chính trị hướng dẫn xây dựng phương án nhân sự cấp ủy cấp tỉnh thuộc diện hợp nhất, sáp nhập và cấp xã thành lập mới.

Tổ chức khởi công, khánh thành trực tuyến đồng loạt các công trình lớn chào mừng 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Tổ chức khởi công, khánh thành trực tuyến đồng loạt các công trình lớn chào mừng 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Chính phủ tổ chức lễ khởi công, khánh thành trực tuyến đồng thời trên cả 03 miền Bắc - Trung - Nam các công trình, dự án quan trọng và các công trình lớn để chào mừng 50 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, dự kiến vào ngày 19/4/2025.

Những điểm mới căn bản của Luật Di sản văn hóa

Những điểm mới căn bản của Luật Di sản văn hóa

Quốc hội đã thông qua Luật Di sản văn hóa 45/2025/QH15, có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 có nhiều điểm mới, thay đổi, bổ sung căn bản của Luật Di sản văn hoá số 45 sẽ khơi thông các điểm nghẽn, huy động sức mạnh của các tổ chức, cá nhân, cơ quan quản lý trong sự nghiệp bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị di sản.

Tập trung thực hiện giải pháp phòng cháy, chữa cháy rừng

Tập trung thực hiện giải pháp phòng cháy, chữa cháy rừng

Để chủ động triển khai các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng, giảm thiểu đến mức thấp nhất thiệt hại do cháy rừng gây ra, Công an tỉnh Lào Cai đã có văn bản đề nghị thủ trưởng các sở, ngành, đơn vị liên quan, Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố phối hợp chỉ đạo triển khai, thực hiện.

Sửa đổi quy định về chế độ, chính sách đối với sĩ quan nghỉ hưu, chuyển ngành

Sửa đổi quy định về chế độ, chính sách đối với sĩ quan nghỉ hưu, chuyển ngành

Chính phủ ban hành Nghị định số 52/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 21/2009/NĐ-CP ngày 23/02/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam về chế độ, chính sách đối với sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ; sĩ quan tại ngũ hy sinh, từ trần; sĩ quan tại ngũ chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp hoặc công chức quốc phòng.

Thủ tướng đôn đốc bộ, ngành, địa phương rà soát, tháo gỡ các dự án đầu tư có khó khăn, tồn đọng kéo dài

Thủ tướng đôn đốc bộ, ngành, địa phương rà soát, tháo gỡ các dự án đầu tư có khó khăn, tồn đọng kéo dài

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký Công điện số 13/CĐ-TTg ngày 8/2/2025 yêu cầu các bộ, ngành, địa phương khẩn trương rà soát, báo cáo đầy đủ các dự án đầu tư có khó khăn, vướng mắc, tồn đọng kéo dài để kịp thời tháo gỡ, triển khai ngay các dự án.

[Infographic] Công thức tính hưởng chính sách nghỉ thôi việc trong sắp xếp bộ máy

[Infographic] Công thức tính hưởng chính sách nghỉ thôi việc trong sắp xếp bộ máy

Cán bộ, công chức và cán bộ, công chức cấp xã quy định tại Điều 2, Thông tư 01/2025/TT-BNV được cơ quan có thẩm quyền cho nghỉ thôi việc thì được bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội hoặc hưởng bảo hiểm xã hội 1 lần theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội quy định tại khoản 3, Điều 9, Nghị định 178/2024/NĐ-CP; đồng thời được hưởng 3 khoản trợ cấp quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4, Điều 9, Nghị định số 178/2024/NĐ-CP như sau:

fb yt zl tw