Phở là kết nối

Phở là món ăn của sự kết hợp, kết nối tài tình: Kết hợp giữa các màu sắc, mùi vị, chất liệu, kết nối giữa các mùa, các không gian khác nhau, và cả kết nối giữa ký ức, hiện tại, tương lai.

Có lần, trong một buổi hướng dẫn nấu ăn mà tôi tham dự, thầy dạy nấu ăn - bếp trưởng bếp Việt tại một khách sạn 5 sao ở Hà Nội, hỏi các học viên xem điều đặc biệt nhất của món phở là gì. Chúng tôi, người thì bảo thịt phải tươi mới, người thì bảo nước dùng phở phải ninh từ xương bò hàng tiếng đồng hồ, người thì nhắc tới quế hồi thảo quả… Nhưng cuối cùng, thầy lắc đầu nói, các em mới để ý đến cái chi tiết. Điều đặc biệt nhất của phở, đấy là các nguyên liệu được sử dụng ở trạng thái gần như nguyên thủy, bằng phương pháp chế biến cũng đơn giản nhất là chần, luộc, có nước dùng thì hầm xương hơi lâu, rồi đem phối hợp với nhau để tạo ra một món ăn rất hài hòa với hương vị cực kỳ khác biệt, hấp dẫn, ngon lành.

Ừ nhỉ, tất cả mới ồ lên thích thú. Phở quả thật là một sự kết hợp khéo léo, hòa quyện. Ăn một bát phở là có đầy đủ các thành phần từ tinh bột, thịt, rau, có nước có cái, có cứng có mềm. Có sản vật sản vật từ biển nếu thêm vài con sá sùng hay sản vật từ rừng nếu thêm chút quế hồi hầm xương làm nước dùng. Có màu trắng của gạo, màu đỏ của thịt bò thái mỏng ướp nước mắm gừng dần qua sống dao hay màu vàng ươm của thịt gà, màu xanh của hành mùi, có thể vị cay của ớt, vị chua của dấm của chanh…

Phở quá quen thuộc nên chẳng mấy nghĩ ngợi nhiều ngoài việc thưởng thức. Nhưng ngẫm thêm một chút sự nguyên bản và kết hợp khéo léo đó khiến món phở hóa ra lại cực kỳ thuần khiết. Hóa ra gần như ai cũng thích món phở là bởi sự chân thật đó. Cũng giống như trong cuộc đời, chế biến nêm nếm đủ kiểu, phông bạt đủ kiểu rồi cũng chán để cuối cùng chỉ còn lại những gì chân thật mới khiến người ta ấn tượng.

Phở ở đâu cũng có, nhưng nhắc tới phở là nhắc tới món ăn tiêu biểu của Hà Nội. Như nhà văn Thạch Lam từng viết, “Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon”…

Thật ra, lên các vùng Tây Bắc, trong cái lạnh buổi sáng sớm của hơi núi còn mờ sương, bưng bát phở khói nghi ngút ở chợ phiên buổi sáng, bánh phở tráng dày, thái to bản, thịt bò thái cũng dày, nước dùng ngọt toàn từ xương hầm mà không một chút mì chính, cũng rất là thú.

Nhưng phở Hà Nội được người ta biết đến là bánh phở dài thái mảnh, những lát thịt bò to bản mỏng dính, thịt tái chần sơ hồng hồng giòn mà không dai, lại đủ lựa chọn tái, chín, gầu, nạm, nước dùng phải trong, và đó mặc nhiên trở thành một chuẩn mực về phở.

Thạch Lam đã định nghĩa về phở ngon của Hà Nội từ đầu thế kỷ trước, và người ta đã khắc sâu trong tâm khảm khái niệm phở ngon đó rồi: “Phở ngon phải là phở cổ điển, nấu bằng thịt bò, nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả, rau thơm tươi, hồ tiêu Bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ… Hàng chục năm nay chả còn ai biết đến cái hương cà cuống thoảng nhẹ đó, nhưng món phở Hà Nội vẫn trọn vẹn.

Mỗi người, mỗi nhà có bí quyết riêng nấu phở. Chọn nguyên liệu thế nào, thành phần gì, ninh bao lâu thì ra nồi nước dùng ngon. Thịt phải mua sáng sớm, thái phải mỏng, ngang thớ, về ướp với những gì. Rồi nào gừng nướng hành nướng, quế hồi thảo quả rang thơm, rễ mùi hạt mùi ninh cùng nước, hành mùi rau ớt thật tươi…

Hàng phở nào ngon thì thơm lừng cả một dãy phố. Có những hàng phở có tuổi hàng chục năm, qua hai ba thế hệ vẫn được khách hàng ưa thích, như Phở Bát Đàn, phở Lý Quốc Sư, phở Khôi, phở Thìn, phở Hàng Đồng, phở gà Châm… Ở Hà Nội cũng có nhiều quán phở gia truyền Nam Định, nơi được coi là quê hương của phở.

Cuộc sống bây giờ ai cũng bận rộn, giới trẻ khó mà theo kịp các bí kíp nấu ăn của thế hệ bà mình, mẹ mình, đôi khi muốn tự nấu phở ở nhà, cốt là nguyên liệu tươi ngon, nêm nếm vừa độ, thì không quá cầu kỳ tinh tế vẫn có một nồi phở ngon để phục vụ gia đình, lấy đó làm niềm vui cuối tuần.

Sự thuần khiết của phở khiến người ta có thể ăn phở dù sáng, dù trưa, dù tối mà vẫn nhẹ bụng. Hay là ăn về mùa nào cũng hợp, mùa đông có bát phở nóng sực nức lên đã đành, mà mùa hè ăn xong bát phở thì vã mồ hôi mà vẫn dễ chịu.

Và hơn thế, phở còn là sự kết nối các vùng miền, trong nước ngoài nước. Từ Hà Nội, Nam Định, phở có mặt ở nhiều nơi trong cả nước, mỗi nơi một hương vị riêng. Phở Nam có thêm rau thơm, giá đỗ. Phở Gia Lai làm từ bánh phở khô, giống phở nam vì có bò viên. Phở cũng có mặt ở nhiều nước và trong menu giờ đây từ Phở vẫn được giữ nguyên mà không cần dịch ra tiếng sở tại. Xưa tôi có ông thầy người Đức mê đồ ăn Việt Nam, trong mấy tháng tôi học ở Đức, vài lần ông đã rủ cả lớp đi ăn đồ ăn Việt, có lần đi ăn phở, lớp gồm các bạn đồng nghiệp từ các nước đang phát triển, ai cũng thích phở.

Các gia đình giờ cho con đi du học, trước khi đi bố mẹ thường dạy con nấu phở. Hoặc không thì sang đó bọn trẻ cũng tự mày mò lên mạng học cách nấu. Được cái ở Mỹ, Châu Âu hay Úc, thịt bò nhiều, lại ngon mềm, lại không đắt, bọn trẻ đôi khi tự nấu cũng đỡ nhớ vị phở ở nhà. Hoặc những khi bạn bè tụ tập liên hoan, mỗi người tự làm món tiêu biểu của nước mình, hay trong những dịp như Quốc khánh Việt Nam, tuần văn hóa Việt Nam, món phở thường được đem ra giới thiệu như một món ăn tiêu biểu, nhắc tới Việt Nam là nhắc tới phở, tới nem, quá đủ để chinh phục bạn bè năm châu.

Một đồng nghiệp của tôi đang công tác ở Nam Phi, hồi đầu tháng 12 vừa rồi, chị kể các cơ quan Việt Nam ở Pretoria đã tổ chức ngày của phở. 400 bát phở được phục vụ miễn phí, anh chị em ta nón lá, áo cờ đỏ sao vàng tay thoăn thoắt chần bánh, chan phở, xinh đẹp tươi tắn, khiến cả ngoại giao đoàn ở Pretoria phải nể và ấn tượng.

Phở như thế đã trở thành một sự kết nối giữa quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngày xưa thiếu thốn, đói kém, trẻ con mong ốm để được ăn phở. Bố mẹ tôi kể, ngày mẹ mang tôi trong bụng, thèm phở, hai anh chị chở nhau ra cửa hàng ăn uống, mà anh đứng ngoài trông xe để chị vào ăn, vì không đủ tiền ăn cả hai bát hai người. Hóa ra câu chuyện ấy cũng không ít gia đình từng gặp.

Phở bây giờ đã được phong di sản. Một di sản không nằm trong tủ kính, mà vẫn đồng hành một cách sống động hàng ngày để được tiếp tục giữ gìn và sáng tạo, để tiếp tục là sự kết nối giữa mọi người. Phở cùng người Việt đi khắp năm châu, mỗi người Việt khi nấu phở cho bạn bè nước ngoài thưởng thức đã trở thành một đại sứ ẩm thực để giới thiệu về văn hóa, về đất nước con người Việt Nam.

Theo daidoanket.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ có 62% là người dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Thái chiếm 45%. Nơi được mệnh danh là cội nguồn của người Thái đen, từ lâu đã trở thành điểm sáng trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong hành trình đổi mới và hội nhập hôm nay, phường Nghĩa Lộ vẫn giữ được hồn cốt văn hóa đặc trưng qua từng điệu xòe, nếp nhà sàn, khung cửi, tiếng khèn, câu hát, cùng lối sống chan hòa, mến khách.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Sau khi một đoạn tường phía Bắc Hoàng thành Huế sụp đổ do mưa lớn kéo dài, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu UBND thành phố Huế kiểm tra, đánh giá hiện trạng, rà soát toàn bộ hệ thống tường thành và các di tích liên quan, đồng thời triển khai biện pháp bảo đảm an toàn cho di tích và người dân.

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Nằm giữa vùng đất Cam Đường giàu truyền thống, di tích lịch sử văn hóa Đền Đôi Cô (tổ 11 Bình Minh, phường Cam Đường) từ lâu đã trở thành địa chỉ tâm linh quen thuộc của người dân địa phương và du khách thập phương.

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Không chỉ mê nhạc Âu - Mỹ, nhiều bạn trẻ Việt đang tự học đàn tranh, đàn tỳ bà qua video online và cover nhạc US-UK bằng chất liệu dân gian. Mạng xã hội trở thành “sân khấu mở”, nơi âm nhạc truyền thống được làm mới, sáng tạo nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Làm sao giữ đúng bản sắc khi cập nhật xu hướng?

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mỗi nét chữ, mỗi trang giấy không chỉ là tri thức mà còn là hơi thở của lịch sử, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu của cộng đồng dân tộc Dao đỏ ở thôn Ù Sóc, xã Bảo Hà, tỉnh Lào Cai. 

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Trong các địa phương trên địa bàn tỉnh, người Thu Lao sinh sống chủ yếu ở khu vực thượng nguồn sông Chảy, thuộc huyện Mường Khương, Si Ma Cai cũ. Người Thu Lao có vốn dân ca phong phú thể hiện tâm tư, tình cảm, phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Mặc dù giới trẻ người Thu Lao ít mặn mà với dân ca, nhưng ở bản làng vùng cao vẫn còn những người ngày đêm lặng lẽ gìn giữ dòng chảy truyền thống của dân tộc.

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Bản Hồ đã đoàn kết, nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng, thế mạnh địa phương, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân.

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Thời gian qua, xã Văn Chấn đẩy mạnh truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mông, đồng thời giúp đồng bào hiểu, sử dụng và duy trì tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong đời sống hằng ngày.

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Tháng Chín âm lịch, khi những bông nếp cái mẩy sữa căng tròn là thời điểm tốt nhất để làm cốm, cũng là lúc đồng bào người Tày, người Dao ở Lâm Thượng nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Cắc kéng” - lễ hội giã cốm nhằm tạ ơn trời đất, mừng mùa màng tươi tốt. Ngày nay, "Cắc kéng" được tổ chức thành Ngày hội văn hoá các dân tộc Lâm Thượng - cuộc triển lãm văn hoá sống động, hút khách.

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Hoàng thành Thăng Long là di tích khảo cổ học có quy mô rất rộng lớn, với nhiều tầng văn hoá phức tạp. Mỗi lớp đất, mỗi dấu tích kiến trúc, mỗi di vật khảo cổ học… chứa đựng những bí ẩn của lịch sử Hoàng cung Thăng Long - nơi hội tụ, kế thừa và phát triển của văn hóa kiến trúc cung đình phương Đông, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Sau 3 ngày diễn ra (từ 31/10 đến 2/11), Lễ hội Ẩm thực chay 2025 đã thu hút hơn 100 nghìn lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và thưởng thức các hoạt động văn hóa, ẩm thực, cộng đồng. Đặc biệt, Lễ hội đã xác lập kỷ lục Việt Nam với 200 món chay từ sen.

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố được coi là “trái tim” của thiết chế văn hóa cơ sở. Đối với tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống như Lào Cai, nhà văn hóa không chỉ là nơi hội họp của thôn, mà còn là địa điểm để người dân tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Chiều muộn ở xã Bảo Ái, cô Lưu Khánh Linh vẫn ngồi giữa những chồng sách cao và tập bài viết của học sinh. Trên bàn làm việc, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Yến mở trang, bên cạnh là bản thảo bài phê bình văn học cô chuẩn bị gửi cho tạp chí. Hình ảnh quen thuộc ấy đã trở thành biểu tượng cho một hành trình đặc biệt: từ trường học ra diễn đàn, từ người truyền đạt tri thức đến nhà phê bình văn học. Quan trọng hơn, cô là người gieo mầm yêu văn chương cho thế hệ trẻ vùng nông thôn.

fb yt zl tw