Nhạc cụ của người Thái Tây Bắc

YBĐT - Nhạc cụ của người Thái Tây Bắc cơ bản gồm bộ hơi: các loại pí – (sáo dọc), khèn bè; bộ dây: đàn tính, nhị và bộ gõ: trống, chiêng, chũm chọe, quả nhạc…; trong đó chủ đạo là bộ gõ và bộ hơi.

Nhạc cụ gõ của người Thái Tây Bắc gồm trống, chiêng, chũm chọe và quả nhạc. Bộ gõ này có vai trò rất quan trọng trong đời sống nghệ thuật và tâm linh. Bộ gõ là vật linh thiêng của mỗi bản, không bao giờ được để mất, không để kẻ thù chiếm đoạt, không được đổi chác mua bán.

Việc chế tác bộ gõ được tiến hành với những bước rất nghiêm ngặt: cúng tế xin phép thần linh, cầu mong thần cho phép, chứng giám và phù hộ rồi tiến hành ở nơi kín đáo, sạch sẽ. Khi chế tác xong phải cử hành lễ tế trang trọng và cất giữ ở nhà sàn hoặc gian thờ ma nhà của trưởng bản hoặc người có chức sắc và chỉ được dùng trong dịp tết hoặc lễ cúng xên bản, xên mường.  Người Thái cho rằng nếu dùng trống chiêng tùy tiện sẽ có hại cho bản mường.

Trống có hai loại "cống" và "cong". Thông thường "cống" hay được dùng trong hội xuân, lễ cúng ma bản mường; còn "cong" dùng khi chủ mường qua đời hoặc khi có giặc, báo động… Tang trống dùng cây gỗ tròn được đục bỏ lõi, thường là gỗ sâng hoặc mít.

“Cống” có tang dài 0,8 - 1m, mặt có đường kính từ 30cm đến 50cm, bịt bằng da trâu bò, âm thành trầm và gần. "Cong" là loại trống dài từ 1,5m đến 3m, mặt bịt da bò, có đường kính từ 50cm đến 70cm, âm thanh trong hơn, vọng rất xa. Khi chế tác tang trống, để có âm thanh như ý, các nghệ nhân cạo nhẵn bên trong và mặt ngoài chứ không dùng sơn.

Chiêng và chũm chọe được chế tác công phu, đặc biệt là rốn chiêng. Để có âm thanh mong muốn, các nghệ nhân pha thêm vào đồng một tỷ lệ vàng theo công thức bí truyền và dùng búa gõ tạo những nốt nhấn. Chiêng có âm thanh trầm được gọi "tô me", tức là con mái, chiếc có âm thanh cao gọi là "tô po", tức là con trống, chiếc có âm thanh ở khoảng giữa gọi là "tô lụ" tức là con con. Chũm chọe gọi là "xánh", chùm nhạc là "mắc hính".

Chiêng có thể dùng riêng hoặc phối hợp cả ba cái tạo ra một hợp âm độc đáo mà các nhà nghiên cứu cho rằng đậm đà ý nghĩa nhân sinh. Thường là đàn ông đánh trống, đàn bà đánh chiêng, con gái trẻ dùng quả nhạc, trẻ con dùng chũm chọe tạo ra những âm thanh sôi động, lôi cuốn lòng người.

Nghe tiếng trống, chiêng, người ta có thể biết ở bản Thái ấy đang có việc vui hay buồn: nếu tiếng trống nhịp 2/4 theo kiểu 3 tiếng cùng với 7 tiếng, tiếng chiêng gõ trên con mái và con trống rơi vào nhịp mạnh, tiếng của con con rơi vào nhịp nhẹ của trống thì chắc chắn rằng ở đó có hội xòe. Còn khi nghe tiếng "cong" dồn dập 3 tiếng hoặc 5 tiếng là có việc khẩn cấp như: cháy nhà, có lũ bão, có giặc…

Các quả nhạc cùng phụ trợ cho hát và các điệu xòe làm tăng sự vui tươi, sôi động. Bộ gõ nói chung và chiêng trống nói riêng là những nhạc cụ không thể thiếu của người Thái Tây Bắc, góp phần làm cho đời sống nghệ thuật thêm phong phú, đồng thời còn chứa đựng những ý nghĩa tâm linh và nhân sinh cao cả, gửi gắm vào đó cả tình yêu, tinh thần lạc quan tin tưởng vào cuộc sống no ấm, hạnh phúc.

Bộ hơi gồm: “pí pặp”, “pí lè”, “pí ló”, “pí sên”, “pí thiu”, “pí tót”, “pí rạ”, có loại 4 lỗ như “pí thiu”, có loại chỉ có một lỗ như “pí tót”, trong đó “pí pặp” đứng đầu các loại “pí”, là lời của tình yêu: “Nghe “pí pặp” thổi/ Tiếng trầm rơi xuống suối/ Đàn cá quên đớp mồi/ Tiếng bổng va chóp núi/ Mây quên bay về trời…” – (dân ca Thái).

“pí thiu” có 4 lỗ tương ứng với những nốt: đô, pha, son, la – (giọng thứ), xưa “pí thiu” dùng để gọi bạn tình mỗi đêm chọc sàn, khi buồn âm thanh của “pí thiu” xa vắng, thổn thức, mênh mang đầy nội tâm. Những đêm thanh vắng nghe tiếng “pí thiu” người già thở dài lần đến hũ rượu nhớ lại tuổi thanh xuân. Còn “pí tót” người thổi phải có kỹ thuật điều khiển bằng hơi kết hợp với sự bấm ngón điêu luyện.

 

Một số nhạc cụ của người Thái Mường Lò.

Những nghệ nhân có kỹ thuật cao siêu có thể lồng tiếng nói trong tiếng phát ra của “pí tót” khiến người nghe có thể cảm nhận được cái “thần” điệu nhạc cùng nội tâm của người thổi. Âm thanh của “pí tót” làm người nghe liên tưởng tới những mất mát, khổ đau, thiệt thòi của số phận. Khèn bè có một vị trí vô cùng quan trọng, là nhạc cụ chủ đạo và là biểu tượng độc đáo của nền âm nhạc Thái.

Với 14 ống nứa tép – “mạy pao” được ghép lại thành từng đôi trên một bầu bằng gỗ thừng mực “mạy mụk”, nghệ nhân dùi 12 lỗ bấm đối xứng và khoét các lỗ thoát hơi trên các ống nứa với các kích cỡ khác nhau ở các vị trí thích hợp. Một trong các kỹ thuật khó nhất là xử lý các lam đồng, từ độ dầy, độ dài tới độ bóng bề mặt.

Với năm cung và một quãng tám, khèn bè có thể diễn tả được hầu hết các điệu dân ca, nhạc hiện đại và làm nền cho các điệu dân vũ và múa hiện đại. Bởi vậy khèn bè luôn có vị trí xứng đáng trong đời sống nghệ thuật của người Thái và cả trong các tiết mục sân khấu. Điều thú vị là ở khèn bè Thái có những âm thanh sóng đôi như: Lả - lá, hai nốt rế, hai nốt son, đồ - đố, phà - phá mà các nghệ nhân gọi là “pò mè” - tức là bố mẹ.

Bởi vậy mỗi khi tiếng khèn bè cất lên nghe da diết sâu lắng như lời tâm tình yêu đương cháy bỏng của những đôi trai gái. Dù đó là điệu “báo xao” – (trai gái), “sài peng” – (tình tự), “lòng tông” – (qua cánh đồng), hay đệm cho các điệu xoè. Triết lý âm dương, sự sinh sôi phát triển của cuộc sống được thể hiện vô cùng tinh tế. Chính vì khả năng biểu cảm phong phú, nên việc chế tác khèn bè rất khó khăn và phức tạp, đòi hỏi một sự khéo léo và trình độ thẩm âm cao.

Chiếc khèn bè không chỉ là nhạc cụ với những âm thanh tuyệt vời mà còn là một tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, kết tinh những giá trị vật chất và tinh thần của tự nhiên và sự sáng tạo cùng tình yêu cao cả của người nghệ sỹ.

Nghe những âm thanh tinh tế của nhạc cụ Thái, người ta như cảm nhận được sự giao hòa của đất trời và vạn vật, ngân rung bay bổng khát vọng một cuộc sống sinh sôi, phát triển, ấm no, hạnh phúc, làm cho tâm hồn người trong sáng hơn, thêm tin yêu vào cuộc sống, hướng mỗi người đến giá trị đích thực của chân - thiện - mỹ.

 Trần Vân Hạc

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Trend book club lan tỏa trong giới trẻ

Trend book club lan tỏa trong giới trẻ

Không chỉ dừng lại ở thói quen đọc sách cá nhân, ngày nay nhiều bạn trẻ tìm đến các book club (câu lạc bộ sách) như một không gian gặp gỡ, chia sẻ và nuôi dưỡng đam mê tri thức. Từ những quán cà phê nhỏ, thư viện cộng đồng đến các nhóm trực tuyến, phong trào sinh hoạt câu lạc bộ sách đang trở thành một xu hướng văn hoá mới, góp phần khơi dậy tinh thần đọc và hình thành cộng đồng gắn kết bằng tri thức.

Xếp hạng 4 di tích quốc gia đặc biệt

Xếp hạng 4 di tích quốc gia đặc biệt

Theo thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính vừa ký Quyết định số 1959/QĐ-TTg ngày 11/9/2025 về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 18, năm 2025) đối với 4 di tích.

Khai mạc Trại sáng tác Văn học - Nghệ thuật tại xã Võ Lao

Khai mạc Trại sáng tác Văn học - Nghệ thuật tại xã Võ Lao

Chiều 11/9, tại xã Võ Lao, Hội Liên hiệp Văn học - Nghệ thuật tỉnh phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức khai mạc Trại sáng tác văn học - nghệ thuật. Đây là trại sáng tác cấp xã đầu tiên được triển khai theo hình thức phối hợp giữa Hội với cơ sở, sau khi hệ thống tổ chức bộ máy được sắp xếp theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Người “giữ lửa” văn hóa Cao Lan

Người “giữ lửa” văn hóa Cao Lan

Ở tuổi 76, nghệ nhân ưu tú Lạc Tiên Sinh vẫn say mê công việc bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Cao Lan. Ông được ví như người "giữ lửa" cho làn điệu Sình ca, một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Cao Lan đang có nguy cơ mai một.

Mùa cơm mới ở bản Hà Nhì

Mùa cơm mới ở bản Hà Nhì

Theo phong tục cổ truyền, cứ đến tháng 7, tháng 8 âm lịch hằng năm, đồng bào Hà Nhì ở các thôn, bản vùng cao khu vực huyện Bát Xát cũ lại tổ chức lễ mừng cơm mới. Lễ mừng cơm mới thể hiện sự tri ân của cộng đồng người Hà Nhì đối với đất trời và tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng bội thu, cuộc sống Nhân dân thêm no ấm.

Văn hóa trở thành nguồn lực phát triển vùng dân tộc thiểu số

Văn hóa trở thành nguồn lực phát triển vùng dân tộc thiểu số

Tại Hội nghị gặp mặt đại biểu đại diện cho đội ngũ trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ cả nước, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, phải tiếp tục gìn giữ, bồi đắp và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại mới, trong đó chú trọng phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Giữ nhịp đàn xưa

Giữ nhịp đàn xưa

Trong dòng chảy phong phú của văn hóa nghệ thuật thì âm nhạc dân tộc vẫn luôn giữ một vị trí đặc biệt. Bằng tình yêu và tâm huyết, nhiều người đã dày công gìn giữ, với mong muốn những giá trị âm nhạc truyền thống không bị mai một theo thời gian.

fb yt zl tw