Nghĩa Đô - sức sống miền suối sạch, đồng xanh

Từ một vùng quê yên bình nằm nép mình giữa núi rừng Tây Bắc, xã Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) đang từng bước chuyển mình trở thành điểm sáng du lịch cộng đồng. 

Năm 2024, thiên tai ập đến gây thiệt hại nặng nề về người và của. Thế nhưng, chỉ một thời gian sau, nơi đây đã lại bừng lên sức sống mới. Những nếp nhà sàn được dựng lại, hoa lại nở bên đường, tiếng cười du khách vang vọng khắp bản làng cho thấy tinh thần kiên cường, bền bỉ của người Tày Nghĩa Đô trước bao thử thách, gian khó.

Khung cảnh thơ mộng của Nghĩa Đô.

Khung cảnh thơ mộng của Nghĩa Đô.

Cơn bão cuối năm 2024 khiến xã Nghĩa Đô thiệt hại nặng nề: Gần 400 ngôi nhà bị ảnh hưởng, nhiều nhà sập đổ hoàn toàn, nhiều hộ buộc phải di dời khẩn cấp và thương vong nối tiếp buồn đau. Với vùng đất giàu truyền thống, vừa bắt đầu khởi sắc từ du lịch cộng đồng đó là thiệt hại vô cùng lớn lao, khiến nhiều dự định phát triển bị gián đoạn.

Vượt khó để xanh thêm bản làng

Còn nhớ, chúng tôi đến Nghĩa Đô những ngày cuối thu năm 2024, khi sương núi còn giăng mờ, bản làng vẫn chưa nguôi ngoai sau cơn lũ dữ. Mưa lũ cuốn theo bùn đất tràn về các thôn bản, cuốn phăng bao mái nhà sàn, vùi lấp ruộng đồng, khắp vùng ngập trong nỗi đau mất mát. Nhưng giữa hoang tàn, không ai nghe thấy lời than thân trách phận. Người Nghĩa Đô bao đời gắn bó với đất, với rừng, nén lại nỗi đau, xây lại từng nền móng, dựng từng bức vách, lợp lại mái nhà...

Bàn tay thô ráp sau mùa bão lại tiếp tục đan sọt, trồng hoa, sửa nhà, gia cố con đường đất, đón khách du lịch trở lại. Các gia đình bị thiệt hại nặng cũng không quên giữ lại vài món đồ truyền thống như chiếc khèn, khung dệt, nồi chõ đồ xôi... để luôn nhắc nhớ nếp nhà xưa.

Trong gian khó, ý chí của người dân lại càng mạnh mẽ. Bản làng như được hồi sinh trong sắc xanh của rừng cọ, của những luống hoa ven đường, trong nụ cười chan chứa niềm tin của bà con trên hành trình khôi phục du lịch - khôi phục chính hơi thở của quê hương.

Bà Lương Thị Quyên - một trong những người đầu tiên làm homestay ở thôn Bản Hón - hôm trước vừa xót lòng, xót dạ vì nhà cửa, vật dụng gia truyền vỡ nát trong bùn đất, những ngày sau đã tự xốc mình lên cùng con cháu dựng lại khung nhà mới. Hàng xóm góp công, đoàn thể địa phương góp sức, ai có gì giúp nấy. Nhà mới chưa đầy đủ tiện nghi, bà vẫn quyết giữ nếp sinh hoạt truyền thống, trải chiếu cói, bày mâm cơm.

“Du lịch đâu chỉ là nhà đẹp mà quan trọng nhất là tình cảm con người, đó mới là hồn cốt bản làng. Mình còn giữ được cái đó, thì còn cơ hội làm lại từ đầu”, bà Quyên chia sẻ, ánh mắt đầy kiên định và tự hào về miền đất mình đã gắn bó.

Từ sau thiên tai, Nghĩa Đô vừa khôi phục, vừa nâng tầm du lịch. Hơn 30 homestay đã được chỉnh trang, nhiều nhà sàn cổ được phục dựng theo đúng kiến trúc truyền thống người Tày, cảnh quan môi trường được cải tạo, các tuyến đường trồng thêm hoa, suối ngòi được dọn sạch, tạo nên một không gian xanh-sạch-đẹp, gần gũi, và đầy sức hút với du khách.

Những homestay giờ đây kiên cố hơn dù vẫn bảo tồn dáng nhà sàn truyền thống. Các gia đình bắt đầu sưu tầm thêm hiện vật cổ, khôi phục lại các trò chơi dân gian, làm đồ lưu niệm từ thổ cẩm, tre nứa. Không gian sống được sắp đặt tinh tế để du khách không chỉ nghỉ ngơi, mà còn được trải nghiệm một cách trọn vẹn đời sống văn hóa của người Tày.

Con đường làng trước kia chỉ đổ bê-tông đơn sơ, nay được trồng hoa hai bên lối, tạo thành những cung đường rực rỡ như tranh vẽ. Dòng suối từng bị lấp do sạt lở đất được người dân cùng nhau khơi thông, làm sạch. Những sọt rác bằng tre được đặt dọc lối đi, gắn kèm lời nhắc thân thiện bằng song ngữ: “Giữ gìn bản sạch - lòng vui, cảnh đẹp”.

Đáng chú ý, người dân giờ đây đã không thụ động đợi du khách tìm đến, mà năng động học cách đưa hình ảnh bản làng mình ra ngoài. Nhiều buổi tập huấn quảng bá du lịch được tổ chức ngay tại nhà văn hóa thôn. Hầu hết hộ dân biết chụp ảnh, quay video bằng điện thoại, sử dụng nhiều nền tảng số... để giới thiệu homestay của mình lên mạng xã hội. Nhờ đó, chưa đầy một năm sau thiên tai, Nghĩa Đô không những phục hồi, mà còn bật lên đầy ấn tượng.

Lượng khách du lịch đến xã trong 6 tháng đầu năm 2025 tăng mạnh, gấp gần 30 lần so với năm 2020. Khách quốc tế cũng bắt đầu quay lại, tìm đến Nghĩa Đô như một nơi để “chạm” vào bản sắc nguyên sơ, chân thật. Ít ai có thể ngờ, từ cảnh tan hoang sau lũ, Nghĩa Đô có thể mạnh mẽ đến thế. Điều đó không đến từ phép màu, mà từ bàn tay, khối óc và trái tim của chính những người dân nơi đây - những con người đã biến mất mát thành động lực, biến khó khăn thành cơ hội.

Để tiếp tục "bước dài"

Nghĩa Đô giờ đây đã trở thành cái tên được nhắc đến đầy tự hào trên bản đồ du lịch huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai như hình mẫu điển hình về du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn văn hóa. Thành công bước đầu ấy là kết quả của một hành trình nỗ lực, sáng tạo chủ động từ chính người dân địa phương. Những gì địa phương đã và đang vận hành không dừng lại ở việc “làm du lịch” mà đã nâng tầm thành “sống cùng du lịch”.

Các homestay vừa là nơi khách du lịch lưu trú, đồng thời trở thành không gian trải nghiệm trọn vẹn văn hóa đồng bào Tày. Cách bài trí gian nhà, đồ ăn, lời chào, âm nhạc cho đến tiếng dệt vải trong bếp nhỏ... tạo nên cảm giác gần gũi mà tinh tế, để mỗi du khách khi rời đi đều mang theo một kỷ niệm đậm sâu.

Điều đáng quý còn ở tinh thần không chạy theo số lượng mà giữ vững bản sắc, uy tín. Việc bảo tồn gần 1.100 nếp nhà sàn cổ thể hiện tư duy dài hạn, không đánh đổi bản sắc lấy những công trình hiện đại. Mỗi nếp nhà sàn được gìn giữ như một “bảo tàng sống”, để khi bước vào, du khách không chỉ thấy, mà còn cảm, và hiểu được tinh thần, nếp nghĩ của một tộc người sống chan hòa với thiên nhiên.

Chiều đầu hè, trời Nghĩa Đô trải nhẹ một lớp sương bảng lảng, những vạt nắng cuối ngày vắt nghiêng qua những mái nhà sàn còn tươi mới. Trong căn homestay ấm cúng của bà Lương Thị Quyên ở thôn Bản Hón, tiếng cười rộn rã của đoàn du khách vừa kết thúc hành trình đi bộ xuyên bản vang lên bên bếp lửa. Mâm cơm chiều đã được dọn sẵn với cá suối nướng lá mắc khén, thịt lợn cắp nách hấp sả, rau rừng luộc chấm chẩm chéo, xôi ngũ sắc và bát rượu ngô thơm nồng. Bà Quyên nhẹ nhàng giải thích cho du khách ý nghĩa từng món ăn, câu chuyện về hạt gạo, về đôi bàn tay chăm chỉ.

Không khí bữa cơm hấp dẫn bởi vị ngon của món ăn và đượm tình ấm áp, như thể sau bao mất mát, đau thương người dân vẫn hồn hậu mở lòng bằng chính những gì đang có: Tình người, văn hóa, sự chân thành và khát vọng thẳm sâu. Trên tường, một chiếc màn hình nhỏ phát slideshow ảnh bản làng, những đoạn clip do chính con cháu trong nhà quay và biên tập bằng điện thoại thông minh, đăng tải lên mạng xã hội để quảng bá cho du lịch quê hương. Thế hệ trẻ người Tày nay đã biết livestream mùa gặt, mùa lễ hội theo cách giản dị mà đầy cảm xúc. Giữa tiếng nói cười, từng nếp nhăn của bà cụ Tày và cả ánh mắt long lanh của trẻ thơ như thấp thoáng ngày mai sáng hơn, vững vàng hơn.

Dù vậy, để bước tiếp những bước dài vững chắc, Nghĩa Đô cần tiếp tục phát triển với những giải pháp thông minh và tinh tế. Nghĩa Đô đã linh hoạt trong chuyển đổi số du lịch, song để bà con thật sự làm chủ công nghệ và đưa văn hóa đặc trưng thành “nội dung số có giá trị”, cần những giải pháp gần gũi, dễ hiểu, có tính cộng đồng cao và gắn chặt với bản sắc; xây dựng thư viện nội dung bản địa có bản quyền (ảnh, video, âm nhạc dân tộc...) để các hộ làm du lịch sử dụng thống nhất; đồng bộ hệ thống đặt phòng và giới thiệu thay vì mỗi hộ một trang...

Theo các chuyên gia du lịch cộng đồng, địa phương cần mở rộng hơn các mô hình du lịch gắn với trải nghiệm thực tế, như “một ngày làm người Tày” với các hoạt động như dệt vải, nấu ăn, bắt cá, đi rừng hái thuốc. Những tour nhỏ nhưng độc đáo ấy sẽ vừa mang lại thu nhập, vừa giúp du khách có sự kết nối sâu sắc với văn hóa bản địa.

nhandan.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Nông dân giúp nhau phát triển kinh tế

Xác định phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững là một trong những chương trình trọng tâm năm 2025, Hội Nông dân tỉnh đã đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn, tạo điều cho hội viên, nhất là hội viên nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo, vượt khó làm giàu.

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xã Lâm Thượng: Mỗi năm thu hoạch trên 12.400 tấn măng mai

Xác định cây tre mai có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên đất đai, tận dụng nguồn lao động sẵn có, có tác dụng phòng hộ, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế đồi rừng, góp phần hoàn thành mục tiêu phấn đấu xây dựng xã Lâm Thượng trở thành xã phát triển khá theo hướng xanh, bản sắc mà Đại hội đại biểu Đảng bộ xã lần thứ I đã đề ra.

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Phát triển nuôi tằm tơ thành ngành nông nghiệp chủ lực

Nghề trồng dâu nuôi tằm bắt đầu “bén rễ” tại Lào Cai từ những năm 2000, khởi đầu từ các mô hình thử nghiệm nhỏ lẻ, thiếu thốn kinh nghiệm và hạ tầng. Trải qua hơn hai thập kỷ, từ chỗ manh mún, tự phát, ngành tằm tơ đã từng bước khẳng định vị thế bằng sự đầu tư bài bản, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và tổ chức sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị.

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Mùa gặt dưới chân núi Ngựa Thần

Núi Ngựa Thần là đỉnh núi thiêng của người Hà Nhì ở vùng đất Y Tý. Dưới chân núi Ngựa Thần, quần thể ruộng bậc thang Thề Pả là vựa thóc lớn nhất vùng, nuôi sống người dân nơi đây qua bao năm tháng. Những ngày này, đồng bào các dân tộc xã Y Tý vào mùa thu hoạch lúa, tạo nên bầu không khí rộn ràng, hối hả.

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Mô hình liên kết OCOP vùng giữa Lào Cai - Yên Bái : Nâng tầm thương hiệu địa phương

Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) đã trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn tại Việt Nam. Sau khi hợp nhất hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái, tiềm năng xây dựng mô hình liên kết OCOP vùng được đánh giá là rất lớn, không chỉ giúp nâng cao giá trị nông sản đặc sản bản địa, mà còn thúc đẩy phát triển bền vững nông thôn, tạo bản sắc kinh tế đặc trưng cho vùng Tây Bắc.

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Kích hoạt sức mạnh kinh tế rừng

Sở hữu rừng bạt ngàn và “thủ phủ” quế lớn nhất cả nước, Lào Cai không chỉ giữ rừng mà đang biến “vàng xanh” thành động lực kinh tế. Nhờ chiến lược toàn diện và tầm nhìn dài hạn, tỉnh tập trung vào chế biến sâu, dược liệu quý và du lịch sinh thái, vươn lên khẳng định vị thế tiên phong của kinh tế xanh Tây Bắc

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Giải pháp cải tạo, hồi phục những “vùng đất chết”

Những năm qua, một số khu vực đất của làng tái chế chì Đông Mai, xã Chỉ Đạo, huyện Văn Lâm - Hưng Yên (nay là xã Lạc Đạo, tỉnh Hưng Yên) bị ô nhiễm nghiêm trọng với hàm lượng kim loại nặng vượt ngưỡng cho phép nhiều lần. Nhờ áp dụng phương pháp rửa đất, tình trạng ô nhiễm dần được cải thiện, mở ra cơ hội hồi phục những điểm nóng ô nhiễm khác.

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Chú trọng chất lượng nguồn giống thủy sản

Trong nông nghiệp, con giống là yếu tố quyết định năng suất và hiệu quả. Với thủy sản cũng vậy, giống tốt giúp người nuôi yên tâm đầu tư, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả sản xuất. Những năm qua, Lào Cai đã chú trọng nghiên cứu, sản xuất giống thủy sản, đáp ứng nhu cầu của người dân và hướng tới phát triển bền vững.

KHỞI SẮC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

KHỞI SẮC NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

Một ngày đầu thu lịch sử, trong ngôi nhà ấm cúng tại xã Yên Bình, tỉnh Lào Cai, cụ Nguyễn Huy Hảo - cán bộ tiền khởi nghĩa đã chia sẻ với chúng tôi về những dấu mốc lịch sử quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp của quê hương.

fb yt zl tw