Tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư đang bộc lộ nhiều rủi ro
Báo cáo nghiên cứu của PGS. TS Phạm Thế Anh, Đại học Kinh tế Quốc dân cho thấy, nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, trở thành một trong những nước có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Để phục vụ mục tiêu xuất khẩu, Việt Nam đã tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng.
Các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài. 9 tháng năm 2025, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam bao gồm: vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 28,54 tỉ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên, TS Nguyễn Đức Hiển, Phó trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương nhận định, kinh tế Việt Nam đang bị phụ thuộc nhiều vào FDI. Ông Hiển chứng minh: “Khu vực FDI chỉ đóng góp vào GDP của Việt Nam khoảng 20%, nhưng xuất khẩu của FDI từ Việt Nam đi các nước khác lại trên 71% và chỉ tạo ra 10% việc làm trong tổng số lực lượng lao động trong nước (tức là tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam trong đó có bao gồm cả xuất khẩu của FDI thì FDI chiếm phần lớn). Đó là còn chưa kể đến trong thời gian gần đây, dòng tiền chi trả sở hữu ra nước ngoài có xu hướng tăng mạnh - tức là nhà đầu tư FDI sau khi đầu tư kinh doanh tại Việt Nam thì dịch chuyển dòng tiền trở lại nước chủ đầu tư. Vì vậy tuy GDP của Việt Nam tăng trưởng khá nhưng nguồn lực kinh tế lại gia tăng không tương ứng”.
GS.TS Hoàng Văn Cường, Uỷ viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế - Tài chính của Quốc hội cũng đưa ra dẫn chứng: “Xuất khẩu của chúng ta đạt 500 tỷ USD, nhưng Việt Nam chỉ giữ lại khoảng 100 tỷ USD - tức là 20%. Như vậy chúng ta đang tăng trưởng hộ cho thế giới”.

Mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam đang gặp nhiều thách thức.
Có thể thấy, mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam đang bộc lộ nhiều rủi ro khi phụ thuộc vào các thị trường lớn như Mỹ, EU hay Nhật. Ngoài ra, căng thẳng thương mại giữa các nước cộng với chính sách thuế quan đối ứng của Mỹ đã gây bất lợi lớn cho các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, gỗ, chế biến thực phẩm..., điều này đặt ra những thách thức mới cho mô hình tăng trưởng truyền thống của Việt Nam. Nếu tiếp tục mô hình tăng trưởng truyền thống và chịu rủi ro cao từ rào cản thuế quan của các nước, Việt Nam khó đạt được mục tiêu tăng trưởng cao và thoát bẫy thu nhập trung bình.
Mô hình tăng trưởng nào cho kinh tế Việt Nam?
Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam những năm gần đây được đánh giá là khá ấn tượng, tuy nhiên phần giá trị để lại cho Việt Nam trong đó lại rất thấp.
Theo GS.TS Hoàng Văn Cường, dù tổng vốn FDI đăng ký hàng năm vào Việt Nam rất cao nhưng nền kinh tế chỉ đang gia công, lắp ráp, nên giá trị gia tăng thấp - chỉ 8%. Việt Nam đang ở trong thời kỳ dân số vàng, nếu tiếp tục duy trì như vậy thì lao động chỉ xoay quanh khâu gia công, lắp ráp (khâu có giá trị thấp nhất trong chuỗi giá trị), dẫn đến bỏ lỡ cơ hội nâng cao trình độ tay nghề và tăng năng suất lao động.
“Nếu không sớm thay đổi, nền kinh tế sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Vì vậy phải thay đổi mô hình tăng trưởng - tức là chuyển sang một mô hình tăng trưởng mới để tăng giá trị của Việt Nam lên”, GS Cường nhấn mạnh.
Bài toán đặt ra là Việt Nam có nên tiếp tục theo đuổi mô hình tăng trưởng truyền thống là dựa vào xuất khẩu và đầu tư nữa hay không. Nếu đổi mới mô hình tăng trưởng thì đổi mới như thế nào?

Đổi mới mô hình tăng trưởng sẽ giúp kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Theo ông, Trần Quốc Khánh, Thường trực Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công thương, Việt Nam đã có một tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thành công trong 30 năm qua, điển hình là kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 60 lần và kết quả là Việt Nam có một mô hình tăng trưởng kinh tế mạnh dựa vào xuất khẩu. Tuy nhiên, sau năm 2008, do ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu mà bắt nguồn từ sự đổ vỡ của thị trường tài chính Mỹ, dẫn đến nền kinh tế của Việt Nam cũng đối diện với khủng hoảng.
Thời điểm đó đã có những ý kiến về thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Nhà nước đã cân nhắc các giải pháp nhưng vẫn quyết định là tiếp tục mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư nhưng trên cơ sở đa dạng hóa nhanh thị trường xuất khẩu bằng cách ký kết các Hiệp định FTA và giải pháp này đã chứng minh được tính đúng đắn của nó khi giúp nền kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng khá như bây giờ.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hướng lớn bởi thuế đối ứng từ các quốc gia đối tác, ông Khánh nhận định, Việt Nam có thể vẫn tiếp tục duy trì mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, nhưng chắc chắn xuất khẩu phải đi con đường hoàn toàn mới so với trước kia bằng cách nâng cao hàm lượng của doanh nghiệp Việt Nam trong giá trị xuất khẩu.
“Bên cạnh xuất khẩu, cần tính đến một mô hình tăng trưởng cân đối hơn đó là tăng trưởng nội cầu. Nội cầu bao gồm hai vấn đề đó là đầu tư công - có thể kích thích tăng trưởng kinh tế nhưng cũng mang lại rủi ro nhất định cho kinh tế vĩ mô (do liên quan đến tính hiệu quả cũng như phát huy lợi ích của các dự án đầu tư công đối với xã hội. Nếu dự án đầu tư công kém hiệu quả sẽ tạo ra gánh nặng cho nền kinh tế ở cả hiện tại và tương lai, dẫn đến kìm hãm tăng trưởng kinh tế trong lâu dài). Thứ 2 là dựa vào nhu cầu tiêu dùng của dân cư – đây chính là nội cầu bền vững nhất. Đối với nội cầu dân cư, cần có chính sách kích thích nhu cầu của dân cư, thí dụ có thể xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân. Thứ ba là tịnh tiến và tăng dần tỷ lệ giá trị gia tăng của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị của FDI, để làm được điều đó, ngay từ đầu phải chủ động tiếp cận để tạo được chỗ đứng của doanh nghiệp Việt trong chuỗi giá trị ở phân khúc cao. Đặc biệt, cần chuyển từ hội nhập kinh tế quốc tế một cách bị động sang hội nhập một cách tự chủ và có chọn lọc”, ông Khánh nhấn mạnh.
Với quyết tâm đưa đất nước tiến lên trong kỷ nguyên mới, Bộ Chính trị đã ban hành các Nghị quyết rất quan trọng, đột phá như: Nghị quyết số 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ; Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân – đây đều là những trụ cột thể chế nền tảng, tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước ta tiến lên trong kỷ nguyên mới, hiện thực hóa tầm nhìn Việt Nam phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Cần khẩn trương triển khai sớm đưa những Nghị quyết đi vào cuộc sống một cách hiệu quả, trên cơ sở tháo gỡ các rào cản pháp lý để mở đường cho doanh nghiệp, khoa học công nghệ phát triển, tạo thuận lợi để doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và sản xuất kinh doanh bền vững, tự tin tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Như vậy, Việt Nam không cần quá phụ thuộc vào mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và đầu tư để tăng trưởng cao - mà sẽ tăng trưởng kinh tế từ chính nội lực của đất nước.