Khi nhà báo viết về những thứ "quê mùa"

"Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó" của nhà báo Cù Mai Công là những câu chuyện bình dị, khiến ta nhớ những thứ nhỏ nhắn, "quê mùa" như thúng xôi vỉa hè, hay một xe phở đêm khuya...

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Khi nhớ về một xứ sở thân yêu, ta nhớ gì nhiều nhất? Đâu phải chỉ là những địa danh nổi tiếng, bề thế mà người ta hay check-in! Ta nhớ nhiều những thứ nhỏ nhắn, “quê mùa” hơn, như thúng xôi vỉa hè, hay một xe phở đêm khuya thơm lừng…

Viết về xứ Ông Tạ, Sài Gòn - nơi dân Bắc 54 di cư tới lập xóm làng, sống giữa miền Nam và tạo nên nhiều nét văn hoá đặc biệt - có nhà báo Cù Mai Công, đã ra mắt đến tập thứ 3 của bộ Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó!.

vvn-sai-gon-mot-thuo-dan-ong-ta-3-34-626.jpg

Nếu tập 1 tập trung vào những câu chuyện lịch sử và địa lý, tập 2 tập trung vào Tết ở Ông Tạ và những thị dân tiếng tăm (văn nghệ sĩ, lính tráng, doanh nhân…) thì tập 3 này lại là về những điều… bình thường, nhỏ bé hơn, đôi khi còn không tên.

Đó là về mâm cơm gia đình, những món ăn Ông Tạ, những ông lão, bà lão buôn thúng bán bưng, là giọng nói Ông Tạ, là mái trường trên đất sình lầy xưa. Mà hoá ra, chính những thứ bình thường, quê mùa đó lại dễ “đánh gục” cảm xúc nhất, dễ khiến người đọc vấn vương, lưu luyến nhất...

Miếng ăn và con người cần lao xưa

Cù Mai Công đưa bạn đọc vào thế giới của bao la những gánh xôi, xe phở, quán bún chả, bánh cuốn, quán canh bún, quán bánh cuốn nóng, rồi xe cháo huyết, mâm quả cưới, kẹo lạc... Biết bao miếng ăn đạm bạc thuở nào, giờ được miêu tả lại, làm sắc màu, mùi vị, hương thơm vương đầy những trang sách.

Chẳng hạn, mâm cơm Ông Tạ hay có rau muống, vì sao? Vì xứ đó có cánh đồng An Lạc bao la, trồng được nhiều rau muống, làm nên những bữa cơm của con người thuở di cư nghèo khó. Đọc vừa thấy thương, vừa thấy buồn.

Suốt những miêu tả ẩm thực trong sách, Cù Mai Công như một nhà phê bình ẩm thực tuy không chuyên nhưng hết mực kỹ tính. Ví dụ, thế nào là xôi Nam Thái, xôi Ông Tạ? Hãy nghe tác giả nhắc: “Hạt xôi dẻo nhưng không nhão; hạt đậu xanh, đậu phộng mềm mà không nát; màu gấc tươi chứ không tái, vị ngọt nhẹ thơm thoảng nước cốt dừa”.

Còn tô phở như thế nào là tuyệt hảo? “Nước dùng thanh, ngọt nhẹ, ít béo; bánh phở mềm mà không nát; tô phở vừa đủ, không tú hụ thịt bánh, màu mỡ... Ăn xong đứng lên, bụng vẫn lưng lửng, miệng vẫn thòm thèm”...

Thế đấy, món Ông Tạ xưa thanh lành, nền nã, không quá ngập ngụa gia vị như quán xá bây giờ. Những món đó lưu giữ có một chút… khó tính lẫn phong lưu của người Hà Nội xưa, yêu cầu cao về chất lượng nguyên liệu lẫn sự vừa vặn, hài hoà của hương vị.

Ẩm thực Ông Tạ cũng nói lên nhiều khía cạnh khác về những người tạo nên chúng. Đó là lớp người lao động di cư, tạo dựng trên vùng đất mới bằng gánh hàng rong, xe đẩy, “rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm”, “mưa năm dãi dầu bao nhiêu năm tháng”.

Còn rất nhiều sự miêu tả, hồi ức về những nhân vật đời thường khác, ông giáo Dũng, võ sĩ Lý Tiểu Quảng, bà Rật xóm Mắm… Họ chỉ là những người bình thường, nhưng đại diện cho các lớp người khác nhau của thời kỳ đó, hiện lên với nét phẩm cách tảo tần, chăm chỉ, kiêu mạn…

Nỗi nhớ thuở còn “nhà quê”

Giống với những tập sách trước, Sài Gòn một thuở - “Dân Ông Tạ đó!” tập 3 được viết với chan chứa niềm hoài niệm ngậm ngùi về những thứ đã xưa, nay tuy chưa mất hẳn, nhưng cũng không còn dễ tìm.

Đọc sách, tôi nghĩ nhiều đến lời của nhà văn Hoài Thanh: “Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê”. Xã hội luôn ào ào tiến về phía trước, mà muốn tiến lên nhanh thì phải bề thế, phải hoành tráng, phải sản xuất hàng loạt… Nhưng hẳn người Việt ngày nay vẫn nhớ thứ nhà quê, cần lao, cũ kỹ nhiều biết bao nhiêu.

Như tác giả Cù Mai Công, mỗi khi ăn một hàng bánh cuốn không đúng vị của Sài Gòn hôm nay, vẫn tần ngần nhớ về hương vị xưa, “nhớ những tấm bánh cuốn mỏng mảnh của lò làm bánh cuốn Thanh Trì”, “nhớ quán bánh cuốn nước mắm cà cuống gần hãng bong bóng Thanh Dung”...

Hoặc như lời kể trong sách, có người Ông Tạ đi nước ngoài nay trở về, vẫn “để mình lang thang qua các khu ngõ ở vùng Ông Tạ thấy gì ăn đó”, cố tìm lại cái chất phở quê lâu ngày thiếu thốn.

Nhà văn Nguyên Ngọc, khi viết về Hội An của ông, cũng từng thiết tha một nỗi nhớ tương tự - nhớ về một ông lão chuyên gánh món “xíu mà” trên phố cổ: “Tôi có một mong ước: Hội An có một bảo tàng văn hóa. Và đến đó, ta có thể chiêm ngưỡng chiếc đòn gánh mòn vẹt của ông già xíu mà của chúng tôi” (trích Tản mạn Hội An).

Cái đòn gánh mòn vẹt của một ông già, gánh xôi của bà lão hay cái xe chè nhỏ… - chính những cái quê mùa, cần lao đó - mới thật sự làm nên hồn cốt của một vùng đất, một xứ sở.

Ta tự hỏi, làm sao những thứ rất bình dị, rất Việt Nam ấy được giữ gìn nguyên vẹn qua thời gian, chứ không chỉ hiện ra mơ màng trong khung trời hoài niệm hôm nay?

Theo Vietnamnet

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Liên hoan truyền hình toàn quân lần thứ XIV có lượng tác phẩm tham dự lớn nhất

Liên hoan truyền hình toàn quân lần thứ XIV có lượng tác phẩm tham dự lớn nhất

Liên hoan Truyền hình toàn quân lần thứ XIV năm 2024 được tổ chức từ ngày 1 đến 3/8/2024, tại Thái Nguyên. Đây là lần đầu tiên Liên hoan truyền hình toàn quân được tổ chức tại tỉnh Thái Nguyên - Thủ đô “Gió ngàn”, “Thủ đô kháng chiến” với nhiều dấu ấn và di tích lịch sử, văn hóa, quân sự gắn với lịch sử dân tộc và truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ra mắt sách ''Đôi bờ giới tuyến (1954-1967)''

Ra mắt sách ''Đôi bờ giới tuyến (1954-1967)''

"Đôi bờ giới tuyến (1954 - 1967)" tái hiện các diễn biến nổi bật tại đôi bờ Hiền Lương - Vĩ tuyến 17 từ lúc đất nước bị chia cắt tạm thời (từ tháng 7/1954) đến lúc giải phóng hoàn toàn, chính thức xóa bỏ đường ranh giới chia cắt đất nước (năm 1967).

Chèo Việt Nam - từ di sản làng quê đến sân khấu hiện đại

Chèo Việt Nam - từ di sản làng quê đến sân khấu hiện đại

Hình thành và phát triển vào khoảng thế kỷ X, chèo là loại hình nghệ thuật dân gian phổ biến tại vùng Bắc Bộ. Nội dung các vở chèo được được người nghệ nhân sáng tạo từ những câu chuyện dân gian, truyền thuyết và các bài học đạo đức. Loại hình sân khấu giàu tính dân tộc này là một phương tiện quan trọng góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới.

Tọa đàm 'Màu ký ức' tri ân các nhà báo liệt sĩ

Tọa đàm 'Màu ký ức' tri ân các nhà báo liệt sĩ

Sáng 19/7, tại Bảo tàng Báo chí Việt Nam (Cầu Giấy, Hà Nội), Liên chi hội nhà báo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp Bảo tàng Báo chí Việt Nam tổ chức Chương trình giao lưu, Tọa đàm tri ân các nhà báo liệt sĩ với chủ đề “Màu ký ức”.

[Ảnh] Lễ hội Khô Già Già - những trầm tích tín ngưỡng, văn hóa của người Hà Nhì

[Ảnh] Lễ hội Khô Già Già - những trầm tích tín ngưỡng, văn hóa của người Hà Nhì

Từ ngày 16 - 18/7, tức ngày Ngọ đầu tiên (ngày con ngựa) của tháng 6 âm lịch, những gia đình người Hà Nhì trong các thôn, bản ở các xã Y Tý, A Lù, Nậm Pung, Trịnh Tường (huyện Bát Xát) lại rộn ràng chuẩn bị các lễ vật thực hiện nghi lễ cúng thần trong Lễ hội Khô Già Già. Đây là lễ hội đặc sắc của người Hà Nhì mang giá trị lâu đời về tín ngưỡng và văn hóa.

Chương trình nghệ thuật "Vĩ tuyến 17 – Khát vọng hòa bình": Kể những huyền thoại đôi bờ Hiền Lương

Chương trình nghệ thuật "Vĩ tuyến 17 – Khát vọng hòa bình": Kể những huyền thoại đôi bờ Hiền Lương

Chương trình nghệ thuật chính luận đặc biệt “Vĩ tuyến 17 – Khát vọng hòa bình” do Báo Nhân Dân phối hợp với tỉnh Quảng Trị tổ chức tối 19/7 tại Khu Di tích Đôi bờ Hiền Lương, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị sẽ đưa khán giả đến với những câu chuyện về những huyền thoại đôi bờ Hiền Lương, nơi vĩ tuyến 17 chỉ có thể chia cắt được về mặt địa lý, nhưng lại là sợi dây nối liền tình yêu nước, tình yêu quê hương của những con người vùng “đất thép”.

fb yt zl tw