Khi nhà báo viết về những thứ "quê mùa"

"Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó" của nhà báo Cù Mai Công là những câu chuyện bình dị, khiến ta nhớ những thứ nhỏ nhắn, "quê mùa" như thúng xôi vỉa hè, hay một xe phở đêm khuya...

Khi nhớ về một xứ sở thân yêu, ta nhớ gì nhiều nhất? Đâu phải chỉ là những địa danh nổi tiếng, bề thế mà người ta hay check-in! Ta nhớ nhiều những thứ nhỏ nhắn, “quê mùa” hơn, như thúng xôi vỉa hè, hay một xe phở đêm khuya thơm lừng…

Viết về xứ Ông Tạ, Sài Gòn - nơi dân Bắc 54 di cư tới lập xóm làng, sống giữa miền Nam và tạo nên nhiều nét văn hoá đặc biệt - có nhà báo Cù Mai Công, đã ra mắt đến tập thứ 3 của bộ Sài Gòn một thuở - Dân Ông Tạ đó!.

vvn-sai-gon-mot-thuo-dan-ong-ta-3-34-626.jpg

Nếu tập 1 tập trung vào những câu chuyện lịch sử và địa lý, tập 2 tập trung vào Tết ở Ông Tạ và những thị dân tiếng tăm (văn nghệ sĩ, lính tráng, doanh nhân…) thì tập 3 này lại là về những điều… bình thường, nhỏ bé hơn, đôi khi còn không tên.

Đó là về mâm cơm gia đình, những món ăn Ông Tạ, những ông lão, bà lão buôn thúng bán bưng, là giọng nói Ông Tạ, là mái trường trên đất sình lầy xưa. Mà hoá ra, chính những thứ bình thường, quê mùa đó lại dễ “đánh gục” cảm xúc nhất, dễ khiến người đọc vấn vương, lưu luyến nhất...

Miếng ăn và con người cần lao xưa

Cù Mai Công đưa bạn đọc vào thế giới của bao la những gánh xôi, xe phở, quán bún chả, bánh cuốn, quán canh bún, quán bánh cuốn nóng, rồi xe cháo huyết, mâm quả cưới, kẹo lạc... Biết bao miếng ăn đạm bạc thuở nào, giờ được miêu tả lại, làm sắc màu, mùi vị, hương thơm vương đầy những trang sách.

Chẳng hạn, mâm cơm Ông Tạ hay có rau muống, vì sao? Vì xứ đó có cánh đồng An Lạc bao la, trồng được nhiều rau muống, làm nên những bữa cơm của con người thuở di cư nghèo khó. Đọc vừa thấy thương, vừa thấy buồn.

Suốt những miêu tả ẩm thực trong sách, Cù Mai Công như một nhà phê bình ẩm thực tuy không chuyên nhưng hết mực kỹ tính. Ví dụ, thế nào là xôi Nam Thái, xôi Ông Tạ? Hãy nghe tác giả nhắc: “Hạt xôi dẻo nhưng không nhão; hạt đậu xanh, đậu phộng mềm mà không nát; màu gấc tươi chứ không tái, vị ngọt nhẹ thơm thoảng nước cốt dừa”.

Còn tô phở như thế nào là tuyệt hảo? “Nước dùng thanh, ngọt nhẹ, ít béo; bánh phở mềm mà không nát; tô phở vừa đủ, không tú hụ thịt bánh, màu mỡ... Ăn xong đứng lên, bụng vẫn lưng lửng, miệng vẫn thòm thèm”...

Thế đấy, món Ông Tạ xưa thanh lành, nền nã, không quá ngập ngụa gia vị như quán xá bây giờ. Những món đó lưu giữ có một chút… khó tính lẫn phong lưu của người Hà Nội xưa, yêu cầu cao về chất lượng nguyên liệu lẫn sự vừa vặn, hài hoà của hương vị.

Ẩm thực Ông Tạ cũng nói lên nhiều khía cạnh khác về những người tạo nên chúng. Đó là lớp người lao động di cư, tạo dựng trên vùng đất mới bằng gánh hàng rong, xe đẩy, “rong ruổi khắp hang cùng ngõ hẻm”, “mưa năm dãi dầu bao nhiêu năm tháng”.

Còn rất nhiều sự miêu tả, hồi ức về những nhân vật đời thường khác, ông giáo Dũng, võ sĩ Lý Tiểu Quảng, bà Rật xóm Mắm… Họ chỉ là những người bình thường, nhưng đại diện cho các lớp người khác nhau của thời kỳ đó, hiện lên với nét phẩm cách tảo tần, chăm chỉ, kiêu mạn…

Nỗi nhớ thuở còn “nhà quê”

Giống với những tập sách trước, Sài Gòn một thuở - “Dân Ông Tạ đó!” tập 3 được viết với chan chứa niềm hoài niệm ngậm ngùi về những thứ đã xưa, nay tuy chưa mất hẳn, nhưng cũng không còn dễ tìm.

Đọc sách, tôi nghĩ nhiều đến lời của nhà văn Hoài Thanh: “Ở mỗi chúng ta đều có một người nhà quê”. Xã hội luôn ào ào tiến về phía trước, mà muốn tiến lên nhanh thì phải bề thế, phải hoành tráng, phải sản xuất hàng loạt… Nhưng hẳn người Việt ngày nay vẫn nhớ thứ nhà quê, cần lao, cũ kỹ nhiều biết bao nhiêu.

Như tác giả Cù Mai Công, mỗi khi ăn một hàng bánh cuốn không đúng vị của Sài Gòn hôm nay, vẫn tần ngần nhớ về hương vị xưa, “nhớ những tấm bánh cuốn mỏng mảnh của lò làm bánh cuốn Thanh Trì”, “nhớ quán bánh cuốn nước mắm cà cuống gần hãng bong bóng Thanh Dung”...

Hoặc như lời kể trong sách, có người Ông Tạ đi nước ngoài nay trở về, vẫn “để mình lang thang qua các khu ngõ ở vùng Ông Tạ thấy gì ăn đó”, cố tìm lại cái chất phở quê lâu ngày thiếu thốn.

Nhà văn Nguyên Ngọc, khi viết về Hội An của ông, cũng từng thiết tha một nỗi nhớ tương tự - nhớ về một ông lão chuyên gánh món “xíu mà” trên phố cổ: “Tôi có một mong ước: Hội An có một bảo tàng văn hóa. Và đến đó, ta có thể chiêm ngưỡng chiếc đòn gánh mòn vẹt của ông già xíu mà của chúng tôi” (trích Tản mạn Hội An).

Cái đòn gánh mòn vẹt của một ông già, gánh xôi của bà lão hay cái xe chè nhỏ… - chính những cái quê mùa, cần lao đó - mới thật sự làm nên hồn cốt của một vùng đất, một xứ sở.

Ta tự hỏi, làm sao những thứ rất bình dị, rất Việt Nam ấy được giữ gìn nguyên vẹn qua thời gian, chứ không chỉ hiện ra mơ màng trong khung trời hoài niệm hôm nay?

Theo Vietnamnet

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Festival Thăng Long – Hà Nội 2025 thu hút hơn 200.000 lượt người: Khẳng định tầm vóc Thủ đô sáng tạo

Festival Thăng Long – Hà Nội 2025 thu hút hơn 200.000 lượt người: Khẳng định tầm vóc Thủ đô sáng tạo

Sau hơn hai tuần diễn ra sôi động (từ ngày 1 đến 16/11), tối 16/11, Festival Thăng Long – Hà Nội 2025 đã chính thức bế mạc tại Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Với chủ đề xuyên suốt “Di sản - Kết nối - Thời đại”, sự kiện đã thu hút gần 200.000 lượt khách trực tiếp và gần một triệu lượt tiếp cận trên mạng xã hội.

Biểu tượng hữu nghị Việt - Trung

Giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua, hai quốc gia” lần thứ VI năm 2025: Biểu tượng hữu nghị Việt - Trung

Giải đua xe đạp quốc tế “Một đường đua, hai quốc gia” lần thứ VI năm 2025 - một sự kiện thể thao được tổ chức thường niên, không chỉ mang tính chuyên môn cao mà còn là biểu tượng sống động cho tình hữu nghị, hợp tác xuyên biên giới giữa tỉnh Lào Cai (Việt Nam) và châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

Các bà, các mẹ trang trọng đội khăn lễ cho thiếu nữ trong ngày cưới.

Hoa văn truyền thống trên trang phục Dao đỏ

Người Dao đỏ ở Lâm Thượng, Phúc Lợi đang lưu giữ rất nhiều giá trị văn hoá truyền thống, trong đó có trang phục của phụ nữ như một cuốn nhật ký dệt bằng chỉ và màu sắc. Những hoa văn rực rỡ không chỉ là nghệ thuật thêu thùa tinh xảo mà còn là câu chuyện được truyền lại, ghi chép đời sống, tín ngưỡng và hành trình của gia đình qua nhiều thế hệ. 

Làm sống lại không gian văn hóa chợ Cốc Lếu xưa

Làm sống lại không gian văn hóa chợ Cốc Lếu xưa

Những ngày này, người dân trong tỉnh và du khách đều háo hức hướng về lễ khai mạc Festival sông Hồng - Lào Cai 2025. Mở đầu cho chuỗi hoạt động phong phú của tuần lễ festival là chương trình trải nghiệm không gian văn hóa chợ Cốc Lếu xưa bên bờ sông Hồng, thuộc phường Lào Cai. Đây được xem là một điểm nhấn độc đáo hứa hẹn thu hút đông đảo du khách.

Người Tày Làng Chiềng trong nhịp sống mới

Người Tày Làng Chiềng trong nhịp sống mới

Giữa nhịp sống hiện đại, làng Chiềng vẫn giữ trong mình vẻ bình yên riêng có. Nơi đây, người Tày gắn bó, đoàn kết, bền bỉ gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

Infographic: Festival sông Hồng Lào Cai năm 2025

Infographic: Festival sông Hồng Lào Cai năm 2025

Festival Sông Hồng năm 2025 với chủ đề “Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” sẽ diễn ra tại Lào Cai. Đây là sự kiện mang ý nghĩa quan trọng về chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hoá; góp phần tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở rộng quan hệ hợp tác, đối ngoại giữa tỉnh Lào Cai nói riêng, các tỉnh lưu vực sông Hồng của Việt Nam nói chung với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

Niềm vui ở Lao Chải

Niềm vui ở Lao Chải

Dân tộc Bố Y là một trong những cộng đồng dân tộc thiểu số ít người sinh sống tại Lào Cai. Những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và cấp ủy, chính quyền địa phương thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia, đời sống của đồng bào nơi đây đang từng bước khởi sắc.

Giữ gìn đàn tính, điệu Then

Giữ gìn đàn tính, điệu Then

Với bàn tay tài hoa và tâm huyết của người nghệ nhân, ông Hà Văn Nguyện ở thôn Kiên Lao, xã Quy Mông đã dành trọn cuộc đời gìn giữ và lan tỏa tinh hoa hát Then, đàn tính - di sản văn hóa quý báu của dân tộc Tày.

Nghệ thuật từ đôi tay

Nghệ thuật từ đôi tay

Giữa vùng núi Trại Cau, người Dao Đỏ thôn Mỏ Sắt (Thái Nguyên) vẫn gìn giữ nghề thêu truyền thống - biểu tượng văn hóa của cộng đồng. Với đôi tay khéo léo và tình yêu trang phục truyền thống của dân tộc mình, chị Triệu Thị Thoa đang góp phần đưa nghệ thuật thêu của đồng bào dân tộc Dao Đỏ vươn xa, chạm đến trái tim du khách trong và ngoài nước.

fb yt zl tw