
Bộ Dân tộc và Tôn giáo đang hoàn thiện dự thảo Nghị định về Tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030, với mục tiêu xây dựng một hệ thống tiêu chí rõ ràng, minh bạch nhằm áp dụng chính sách có địa chỉ, đúng đối tượng; thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển nông nghiệp đặc sản, góp phần phát triển bền vững.
Thu hẹp dần khoảng cách phát triển
Đại diện lãnh đạo Bộ Dân tộc và Tôn giáo cho hay hiện nay, việc phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển đang được thực hiện theo Quyết định số 33/2020/QĐ-TTg ngày 12/11/2020 của Thủ tướng Chính phủ, áp dụng cho giai đoạn 2021 - 2025.
Tuy nhiên, quyết định trên sẽ hết hiệu lực sau năm 2025. Do đó, nếu không có văn bản mới thay thế sẽ dẫn đến khoảng trống pháp lý trong việc xác định địa bàn triển khai các chính sách dân tộc, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xây dựng và phân bổ nguồn lực đầu tư trung hạn giai đoạn tiếp theo.
Vì vậy, việc ban hành nghị định thay thế quyết định hiện hành là cần thiết nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, bảo đảm thống nhất, minh bạch và phù hợp với Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Tổ chức Chính phủ và yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn hiện nay.
Đặc biệt, theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, việc ban hành nghị định trên sẽ thể chế hóa đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Thực tế, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định vị trí, vai trò chiến lược của công tác dân tộc và chính sách dân tộc trong sự nghiệp phát triển. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thu hẹp dần khoảng cách phát triển giữa các vùng, giữa các dân tộc”.
Bộ Chính trị cũng đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW khóa IX, trong đó nhấn mạnh yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc theo hướng tích hợp, lồng ghép, có trọng tâm, trọng điểm.
Quốc hội cũng đã phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và thông qua bố trí vốn triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Tuy nhiên, để cụ thể hóa các chủ trương trên, theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, cần thiết phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật cấp Chính phủ nhằm quy định thống nhất, công khai, minh bạch các tiêu chí phân định địa bàn, làm cơ sở áp dụng chính sách dân tộc trong giai đoạn 2026 - 2030 và các giai đoạn tiếp theo.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2026 - 2030, mục tiêu phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ là xóa đói giảm nghèo, mà còn hướng đến phát triển toàn diện, bền vững, có bản sắc và gắn kết liên vùng.
“Do đó, cần thiết phải xây dựng tiêu chí phân định phù hợp với yêu cầu mới, làm cơ sở hoạch định chính sách một cách chiến lược, hiệu quả,” đại diện lãnh đạo Bộ Dân tộc và Tôn giáo thông tin.
Thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh
Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Nghị định về Tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030, là căn cứ để xác định địa bàn ưu tiên đầu tư, phân bổ nguồn lực công bằng và hiệu quả.
Cụ thể, các tiêu chí xác định thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gồm: Có tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều gấp từ 3 lần tỷ lệ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân của cả nước trở lên; riêng Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều gấp từ 2 lần tỷ lệ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân của cả nước trở lên.
Tiếp theo là tỷ lệ đường từ trung tâm xã đến các thôn chưa được cứng hoá theo tiêu chuẩn B đường giao thông nông thôn; chưa có điện lưới quốc gia hoặc đã có nhưng còn trên 30% số hộ chưa được sử dụng điện lưới quốc gia.

Trong đó việc xác định thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, phải đảm bảo là thôn có ít nhất 2 trên 3 tiêu chí trên.
Đối với tiêu chí phân định xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển, Bộ Dân tộc và Tôn giáo đề xuất 8 tiêu chí, gồm: Thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 50% trở lên so với thu nhập bình quân đầu người của cả nước theo công bố của năm trước liền kề; có tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều cao gấp từ 1,5-2 lần trở lên so với tỷ lệ nghèo theo chuẩn đa chiều bình quân của cả nước.
Tiếp theo là tỷ lệ hộ có điện sử dụng thường xuyên, an toàn đạt dưới 90%; tỷ lệ hộ dùng nước sạch, hợp vệ sinh đạt dưới 80%; tỷ lệ đường xã được cứng hóa theo tiêu chuẩn A đường giao thông nông thôn đạt dưới 80%; tỷ lệ đường giao thông nông thôn từ trung tâm xã đến các thôn được cứng hoá đạt dưới 60%; chưa có trạm y tế đạt chuẩn quốc gia; tỷ lệ trường, lớp học được xây dựng kiên cố đạt dưới 90%.
Trên cơ sở đó, phân định xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi sẽ áp dụng theo trình độ phát triển: Xã khu vực I (xã đang phát triển) là xã có ít hơn 3 tiêu chí; xã khu vực II (xã khó khăn) là xã có từ 3 đến 4 tiêu chí; xã khu vực III (xã đặc biệt khó khăn) là xã có từ 5 tiêu chí trở lên.
Căn cứ các tiêu chí trên, Trung ương và các địa phương sẽ phân định rõ ràng các địa bàn theo đặc điểm dân cư, địa hình, điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển kinh tế - xã hội là cơ sở để áp dụng chính sách có địa chỉ, đúng đối tượng; ưu tiên đầu tư các nguồn lực ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn vay ưu đãi và nguồn lực xã hội; thiết lập hệ thống dữ liệu thống nhất phục vụ quản lý, theo dõi và đánh giá chính sách một cách khách quan, minh bạch.
Cùng với đó, nghị định cũng góp phần phân định địa bàn cụ thể. Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, phân định địa bàn không chỉ là yêu cầu kỹ thuật của quản lý nhà nước, mà còn là công cụ để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng, các dân tộc; bảo đảm quyền tiếp cận công bằng đến các dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế, nước sạch, điện, internet.
Nghị định về Tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030, cũng sẽ góp phần thúc đẩy chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển nông nghiệp đặc sản, kinh tế bản địa; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa.