Sản xuất nông nghiệp giảm phát thải: Tiên phong từ hạt gạo Việt

Ngành lúa gạo Việt Nam đang có bước chuyển mình mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

gao-vn-1-8703.jpg
Nông dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang thu hoạch lúa Đông Xuân năm 2025.


Từ những mô hình như lúa – tôm ở bán đảo Cà Mau đến đề án Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, ngành lúa gạo Việt Nam đang có bước chuyển mình mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Điều này cũng đang từng bước khẳng định vị thế mới của Việt Nam trong chuỗi giá trị lúa gạo toàn cầu không chỉ bằng sản lượng hay chất lượng, mà còn bằng hướng đi khác biệt: sản xuất xanh, phát thải thấp.

Tại bán đảo Cà Mau, mô hình canh tác luân canh lúa – tôm đã chứng minh hiệu quả vượt trội cả về kinh tế lẫn môi trường. Giống lúa ST24 và ST25 được trồng tại đây cho năng suất ổn định 6 tấn/ha, giá bán lên đến 9.200 đồng/kg, cao hơn khoảng 3.000 đồng so với lúa thường. Đặc biệt, vào vụ thu hoạch tháng Chạp, thương lái sẵn sàng trả tới 13.000 đồng/kg cho lúa ST25 – Lúa Tôm. Không chỉ tạo lợi nhuận gấp đôi, mô hình còn giúp giảm 30% lượng phân hóa học, 75% thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời ổn định môi trường sinh thái, bảo vệ vụ tôm và giảm phát thải khí nhà kính. Với hơn 2.000 ha đã được bao tiêu theo quy trình sản xuất xanh, mô hình này đang tạo nền tảng vững chắc để thương hiệu “Gạo Ông Cua” vươn ra thị trường quốc tế.

Trong khi đó, tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đề án Phát triển bền vững một triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp được đánh giá là bước đi chiến lược, góp phần định hình lại toàn bộ ngành hàng lúa gạo theo hướng sinh thái và bền vững. Tính riêng năm 2025, diện tích đăng ký thực hiện đề án đã vượt 312.000 ha. Cả vùng đã chủ động triển khai hơn 100 mô hình thí điểm, với diện tích trên 4.500 ha, ghi nhận năng suất tăng từ 5 – 10%, hiệu quả kinh tế tăng từ 3 – 5 triệu đồng/ha.

Tại Trà Vinh, một trong những địa phương đi đầu trong triển khai đề án, vụ Đông Xuân 2024–2025 có tới 16 mô hình với diện tích hơn 883 ha. Hai hợp tác xã Phát Tài và Phước Hảo là những điển hình thành công. Gia đình ông Nghị Mân, thành viên Hợp tác xã Phát Tài, thu hoạch 8 tấn/ha lúa giống OM 5451 – cao hơn 1 tấn so với ruộng ngoài mô hình, lợi nhuận tăng thêm gần 10 triệu đồng/ha. Còn ông Nguyễn Văn Phúc, thành viên Hợp tác xã Phước Hảo, trồng giống ST24 cho năng suất 8 tấn/ha, chi phí giảm mạnh nhờ sử dụng ít giống, ít phân bón và thuốc trừ sâu, lợi nhuận đạt 49 triệu đồng/ha, cao hơn 7 triệu so với cách làm truyền thống.

gao-vn-2-tieu-deu-952.jpg
Gạo xuất khẩu của Công ty TNHH MTV Lương thực Thạo Sơn thuộc Công ty Cổ phần Tập đoàn Lộc Trời.

Không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế, mô hình còn ghi nhận mức giảm phát thải khí nhà kính tới 40–50% so với tập quán canh tác cũ. Nhờ giảm lượng giống gieo sạ từ 150kg xuống còn từ 60–70kg/ha, giảm phân bón hóa học 20–30%, giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật, chi phí sản xuất được cắt giảm đáng kể, lợi nhuận bình quân tăng 6,5–7,8 triệu đồng/ha. Từ thành công này, tỉnh Trà Vinh dự kiến nhân rộng mô hình lên 10.550 ha trong năm 2025, hướng tới 30.736 ha vào cuối năm 2030.

Tại Tiền Giang, mô hình canh tác mới ban đầu khiến nông dân e ngại vì phải giảm lượng giống. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, cây lúa đẻ nhánh khỏe, tăng sức chống chịu sâu bệnh, năng suất cao hơn và lợi nhuận tăng thêm 8–10 triệu đồng/ha. Nhờ được bao tiêu sản phẩm và cơ giới hóa toàn bộ quy trình, người dân rất phấn khởi. Tỉnh đã tổ chức hơn 100 lớp tập huấn, giúp nông dân nắm rõ quy trình kỹ thuật và tư duy sản xuất gắn với bảo vệ môi trường.

Không chỉ ở những diện tích trong mô hình, hay tham gia đề án, những kỹ thuật sản xuất lúa như áp dụng tưới ngập – khô xen kẽ (AWD) được khai ở nhiều vùng sản xuất lúa có điều kiện thủy lợi tốt đã giúp tiết kiệm nước, giảm phát thải khí mê-tan. Tại Nghệ An, mô hình AWD cho thấy mức giảm phát thải lên tới 50% so với truyền thống, tương đương 6,3–6,7 tấn CO₂ tương đương/ha, mở ra cơ hội tham gia thị trường tín chỉ carbon tự nguyện.

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường đánh giá, phương pháp canh tác tưới ngập khô xen kẽ AWD là giải pháp phù hợp cho nhiều vùng lúa, dễ đo đếm và tích hợp vào cơ chế chi trả dựa trên kết quả giảm phát thải.

Bên cạnh kỹ thuật sản xuất, việc xây dựng thương hiệu cũng được ngành lúa gạo chú trọng. Hiệp hội Ngành hàng lúa gạo Việt Nam đang xúc tiến phát triển nhãn hiệu chứng nhận “Gạo Việt xanh phát thải thấp”, cấp cho các hợp tác xã, doanh nghiệp đạt chuẩn. Gạo Việt đạt tiêu chí xanh hiện đã xuất khẩu sang Nhật Bản, chuẩn bị vào thị trường Australia. Theo ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, để gạo xanh thực sự đi xa, cần chọn giống phù hợp từng thị trường. Với thị trường cao cấp như Nhật Bản, EU, Mỹ, Hàn Quốc, nên tập trung vào giống Japonica hoặc ST25 – vừa hợp khẩu vị, vừa đảm bảo yếu tố phát thải thấp.

Ở cấp độ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành vào cuộc đồng bộ: từ hoàn thiện quy hoạch, cấp vốn, hỗ trợ tín dụng, xây dựng thương hiệu, đàm phán hiệp định thương mại, đến tổ chức lại sản xuất theo chuỗi. Đặc biệt, yêu cầu các địa phương phát huy tối đa lợi thế thủy lợi để triển khai mô hình; tăng cường truyền thông, tập huấn; hỗ trợ hợp tác xã nâng cao năng lực và mở rộng diện tích canh tác theo đề án.

Sản xuất lúa gạo phát thải thấp không còn là mô hình thí điểm mà đang dần trở thành chuẩn mực canh tác mới. Sự thay đổi bắt đầu từ chính tư duy của người nông dân từ “làm nhiều để đủ ăn” sang “làm xanh để bền vững”. Đây không chỉ là bước tiến về kỹ thuật mà còn là lời khẳng định của Việt Nam trên bản đồ nông nghiệp xanh toàn cầu.

bnews.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Nông nghiệp xanh góp phần nâng cao giá trị nông sản, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Lào Cai hướng tới nền nông nghiệp xanh

Trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng tác động sâu rộng đến sản xuất nông nghiệp, yêu cầu chuyển đổi sang mô hình canh tác xanh, phát thải thấp không còn là xu hướng mà đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết. 

Kênh tín dụng thiết thực của hội viên nông dân xã Xuân Ái

Kênh tín dụng thiết thực của hội viên nông dân xã Xuân Ái

Những năm qua, Quỹ Hỗ trợ nông dân đã trở thành kênh tín dụng thiết thực, tiếp sức cho hội viên nông dân xã Xuân Ái đầu tư sản xuất, phát triển kinh doanh, tạo việc làm và từng bước nâng cao thu nhập. Nhờ nguồn vốn này, nhiều hộ nông dân mạnh dạn mở rộng các mô hình chăn nuôi, trồng trọt, phát triển rừng kinh tế và liên kết theo chuỗi giá trị, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội tại địa phương.

Khoảng trống thú y viên cơ sở sau sáp nhập: Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn quản lý

Khoảng trống thú y viên cơ sở sau sáp nhập: Những vấn đề đặt ra từ thực tiễn quản lý

Sắp xếp đơn vị hành chính và triển khai mô hình chính quyền địa phương hai cấp là chủ trương lớn nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực quản lý. Tuy nhiên, thực tiễn công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi thời gian qua cho thấy, nhiều vấn đề đang phát sinh tại cấp xã, phường, nơi giữ vai trò tuyến đầu trong kiểm soát dịch bệnh.

Xã Bảo Yên đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn

Xã Bảo Yên đẩy mạnh thu hút đầu tư vào các lĩnh vực mũi nhọn

Sau khi thực hiện sáp nhập đơn vị hành chính, xã Bảo Yên đã mở rộng không gian phát triển với nhiều tiềm năng và lợi thế. Đặc biệt, các lĩnh vực nông - lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và du lịch được xác định là mũi nhọn, xã tập trung thu hút đầu tư nhằm tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn tới.

Sín Chéng tăng cường quản lý tài nguyên nước

Sín Chéng tăng cường quản lý tài nguyên nước

Trong bối cảnh tài nguyên nước ngày càng trở nên quý giá, chính quyền và người dân xã Sín Chéng đã và đang nỗ lực tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ nguồn nước tự nhiên nhằm đảm bảo đời sống, sản xuất của Nhân dân trên địa bàn.

Nông dân Lào Cai phát huy vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Nông dân Lào Cai phát huy vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới

Nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn giữ vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai. Trước thềm Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Lào Cai lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 - 2030, nhìn lại 5 năm qua cho thấy các cấp Hội Nông dân đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới.

Chống buôn lậu, vận chuyển hàng cấm cao điểm cuối năm:Ứng dụng công nghệ nâng cao hiệu quả

Chống buôn lậu, vận chuyển hàng cấm cao điểm cuối năm:Ứng dụng công nghệ nâng cao hiệu quả

Cuối năm là thời điểm tình trạng buôn lậu, hàng giả, hàng cấm, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới gia tăng. Trước diễn biến phức tạp này, lực lượng Hải quan đã triển khai nhiều biện pháp hữu hiệu như ứng dụng phân tích dữ liệu, đánh giá rủi ro để nhận diện sớm hành vi gian lận...

Tiếp sức để người dân tái sản xuất

Tiếp sức để người dân tái sản xuất

Từ ngày 1/12, lãi suất cho vay một số chương trình tín dụng chính sách tại Ngân hàng Chính sách xã hội sẽ được điều chỉnh giảm. Đây là một "làn gió mát lành" cho hàng triệu hộ gia đình yếu thế đang vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội nói chung và hàng nghìn hộ đang dư nợ tín dụng ưu đãi của tỉnh Lào Cai nói riêng.

Kết quả tích cực từ các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp

Kết quả tích cực từ các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp

Giai đoạn 2021 - 2025, việc thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp tại Lào Cai đã tạo ra chuyển biến rõ nét trong tái cơ cấu ngành, nâng cao năng suất, chất lượng và thu nhập của người dân. Các chính sách được xây dựng phù hợp thực tiễn, bám sát nhu cầu của doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ sản xuất, qua đó mở ra hướng phát triển bền vững hơn cho nông nghiệp địa phương.

fb yt zl tw