Gạo Việt Nam sẽ trụ vững với phân khúc chất lượng cao

Bất chấp tác động tiêu cực từ sự gia tăng đột biến của nguồn cung gạo chất lượng thấp đầu năm 2025, dự báo giá lúa gạo Việt Nam sẽ tăng trở lại bởi chúng ta có phân khúc riêng là lúa gạo chất lượng cao (chiếm 80% sản lượng xuất khẩu), không cạnh tranh nhiều với phân khúc gạo chất lượng thấp.

Phó Thủ tướng: Trong tháng 3/2025 phải sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Phó Thủ tướng: Trong tháng 3/2025 phải sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Dự báo giá lúa gạo sẽ tăng trở lại

Đầu năm 2025, nguồn cung cho thị trường lúa gạo thế giới tăng kỷ lục, đạt 532,7 triệu tấn (theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, tháng 2/2025), khi Ấn Độ – nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới – đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu, tạo sức ép mạnh mẽ với các nhà xuất khẩu khác như Việt Nam, Thái Lan, nhất là ở phân khúc chất lượng thấp.

Bên cạnh đó, yêu cầu từ các thị trường xuất khẩu lớn như EU, Mỹ về phát triển bền vững, giảm phát thải và truy xuất nguồn gốc đòi hỏi ngành lúa gạo phải chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất truyền thống sang sản xuất xanh, thông minh.

Thực tế trên đã gây sức ép không nhỏ đến ngành lúa gạo Việt Nam ngay từ đầu năm 2025, khi ước kim ngạch xuất khẩu 2 tháng đầu năm đạt 1,1 triệu tấn (tăng 5,9%), giá trị đạt 613 triệu USD (giảm 13%).

Cơ cấu xuất khẩu gạo Việt Nam: Gạo trắng (tỷ trọng khoảng 71%, giá trung bình 523 - 540 USD/tấn) chủ yếu xuất khẩu sang Philippines, Indonesia, và châu Phi; Gạo thơm như Jasmine, Đài Thơm, ST24, ST25 (tỷ trọng 19%, giá 640-700 USD/tấn), chủ yếu xuất khẩu sang EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc, và Nhật Bản. Gạo nếp (chiếm 6%) xuất khẩu sang Trung Quốc, Philippines, và một số nước Đông Nam Á khác. Gạo Japonica và gạo đặc sản khác (tỷ trọng 4%) chủ yếu tiêu thụ tại Nhật Bản, Hàn Quốc và thị trường cao cấp khác.

Lãnh đạo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho biết, do 80% gạo xuất khẩu của Việt Nam ở phân khúc chất lượng cao nên mức độ ảnh hưởng về giá do gạo của Ấn Độ quay trở lại thị trường (chủ yếu là chất lượng thấp) chỉ là tạm thời.

Mặt khác, nguồn cung nội địa hạn chế (sản lượng 2025 giảm còn 43,14 triệu tấn do hạn mặn tại ĐBSCL) khiến Việt Nam không rơi vào tình trạng bán tháo, giảm áp lực giá trong ngắn hạn. Nhu cầu từ Trung Quốc (5-6 triệu tấn/năm) và Philippines (4,5-4,7 triệu tấn) dự kiến tăng từ quý II/2025 cũng là yếu tố hỗ trợ giá gạo Việt Nam phục hồi.

Ông Vương Quốc Nam - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Ông Vương Quốc Nam - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Tại hội nghị về sản xuất, thị trường lúa gạo, ngày 7/3, tổ chức ở TP. Cần Thơ, ông Vương Quốc Nam, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng cho biết tình hình tiêu thụ lúa ở địa phương vẫn diễn biến như kỳ vọng, nông dân trồng lúa thơm và lúa đặc sản như ST25 được doanh nghiệp, thương lái mua cao hơn cùng kỳ.

Ông Trần Tấn Đức, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) Năm nay các DN không có hợp đồng gối đầu, tình hình thị trường lúa gạo hiện nay là bình thường theo cung cầu thị trường lúa gạo thế giới. Dự báo trong thời gian tới, giá lúa gạo sẽ tăng dần trở lại.

Còn ông Nguyễn Ngọc Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho rằng, năm 2023 Việt Nam xuất khẩu trên 8 triệu tấn, năm 2024 đạt khoảng 9 triệu tấn. Điều này khẳng định, các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động tìm kiếm thị trường, lượng lúa hàng hóa sản xuất ra nên không lo ngại vấn đề tiêu thụ.

Ông Lê Thanh Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam thông tin thêm, việc tăng hay giảm không phải là việc thiếu hụt gạo hoặc quá dư thừa mà là những tình huống về mặt mùa vụ của khu vực. Những tháng đầu năm, doanh nghiệp xuất khẩu gạo đang rất tích cực mua.

Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An - Ảnh: VGP/Minh Khôi
Ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An - Ảnh: VGP/Minh Khôi

Đẩy mạnh mua trữ, chống bán tháo

Trao đổi về các giải pháp để chặn đà giảm, giữ ổn định và kéo giá gạo tăng trở lại, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy cho rằng, thứ nhất là cần tính toán giải pháp cho câu chuyện nâng cao năng lực hệ thống kho chứa để thu mua tích trữ trong lúc cao điểm.

Thứ hai, là hạn ngạch cho vay để doanh nghiệp thu mua dự trữ hiện đang ngắn, lãi suất chưa thực sự hấp dẫn. Do đó, Ngân hàng Nhà nước và các doanh nghiệp cần làm rõ thêm nhu cầu nguồn vốn tín dụng để đáp ứng năng lực dự trữ hiện tại.

Thứ ba là các địa phương phải tăng cường thanh tra, kiểm tra; xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng thời điểm khó khăn để ép giá nông dân.

Thứ tư là để ổn định thị trường về lâu dài, các doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối phải có chuỗi liên kết với bà con nông dân, từ việc sản xuất đến thu mua, xay xát, chế biến, xuất khẩu. Tức là hình thành các chuỗi, doanh nghiệp phải có quy mô lớn, đảm bảo năng lực về vốn, hệ thống kho lưu trữ, có hệ thống “cánh tay nối dài” là các HTX để thu mua, vận chuyển.

Ông Nguyễn Ngọc Nam kiến nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại xem xét tăng hạn mức, kéo dài thời gian cho vay đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vay mua gạo để dự trữ hạn chế bán ra ồ ạt như hiện nay. Bộ Công Thương kích hoạt giá sàn gạo xuất khẩu với mức 500 USD/tấn. Bộ Tài chính tháo gỡ vướng mắc trong hoàn thuế giá trị gia tăng.

"Khi có tài chính ổn, doanh nghiệp và nông dân tự tin giữ hàng lại nếu thấy thị trường không tốt. Việc giữ lại kho nông dân, kho cung ứng, kho xuất khẩu... cùng nhau giữ hàng như vậy giúp phần nào ngăn chặn việc giảm giá, thậm chí kéo giá tăng", ông Nguyễn Ngọc Nam chia sẻ.

Còn ông Lê Thanh Tùng cho rằng phải đẩy mạnh cung cấp thông tin nhanh chóng, kịp thời về tình hình sản xuất, thời tiết mùa vụ, thị trường lúa gạo trong nước và thế giới tới các địa phương, doanh nghiệp và bà con nông dân.

Đồng tình với các ý kiến trên, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An khẳng định, gạo Việt Nam có phân khúc riêng, chúng ta không sợ Ấn Độ xả gạo, đừng lo lúa gạo Việt Nam có bán được hay không.

Ông nhấn mạnh, cốt lõi nhất là liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ thì lúa gạo Việt Nam sẽ không còn tình trạng "được mùa mất giá, được giá mất mùa" như hiện nay khi người dân yên tâm sản xuất vì đã được bao tiêu đầu ra với giá cả ổn định, ngân hàng thì sẵn sàng giải ngân.

Theo ông, lời giải cho bài toán này đã có, đó là Đề án "Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030," được Thủ tướng phê duyệt cuối năm 2023.

"Sóc Trăng sẽ tiếp tục chuyển đổi cơ cấu giống lúa, tập trung vào nhóm giống đặc sản, lúa thơm. Sau khi thí điểm thành công ở huyện Long Phú, Sóc Trăng mạnh dạn nhân rộng mô hình sản xuất lúa theo đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp. Toàn bộ diện tích trồng lúa trong đề án này đều làm giống lúa thơm ST25, có doanh nghiệp tiêu thụ, giá cả đảm bảo nông dân có lời", ông Vương Quốc Nam cho biết.

Trong khi đó, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân khẳng định, với vai trò quản lý nhà nước, Bộ cam kết đẩy mạnh các giải pháp xúc tiến xuất khẩu gạo để sớm tháo nút thắt cho mặt hàng này. Được biết, Bộ Công Thương đã đưa ra các giải pháp trọng tâm nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân trồng lúa như tổ chức các đoàn xúc tiến thương mại tại các thị trường xuất khẩu gạo truyền thống (như Philippines, Indonesia, Trung Quốc), cũng như tiềm năng; theo dõi sát tình hình thị trường, thương mại lúa gạo toàn cầu và các thị trường truyền thống, cũng như của các đối thủ cạnh tranh để kịp thời có giải pháp phù hợp.

Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cũng thông tin thêm, ngay đầu năm 2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01 sửa đổi Nghị định 107 ngày 15/8/2018 về kinh doanh xuất khẩu gạo. Trong đó, quy định trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xuất khẩu gạo báo cáo về lượng thóc, gạo thực tế tồn kho theo từng chủng loại cụ thể hàng tháng cho Bộ Công Thương, Sở Công Thương nơi thương nhân có trụ sở chính, có kho, có cơ sở xay, xát hoặc chế biến thóc, gạo và Hiệp hội Lương thực Việt Nam.

Chủ động điều hành sản xuất lúa gạo khi có biến động của thị trường xuất khẩu

Kết luận tại hội nghị về sản xuất, thị trường lúa gạo, ngày 7/3, tổ chức ở TP. Cần Thơ, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nêu rõ: Thời gian qua phản ứng chính sách đối với diễn biến thị trường lúa gạo là khá kịp thời với nhiều chỉ đạo quyết liệt, cụ thể đối với vấn đề này. Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin cho người dân, doanh nghiệp về diễn biến thời tiết, hoạt động sản xuất, xuất khẩu trên thị trường thế giới còn là điểm yếu.

Qua phân tích và dự báo, đánh giá về nhu cầu gạo trên thế giới cho thấy triển vọng tốt đối với lúa gạo Việt Nam, có thương hiệu, phân khúc riêng.

Phó Thủ tướng yêu cầu Bộ Công Thương khẩn trương kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng tình hình thị trường lúa gạo trong nước khi phân khúc lúa gạo chất lượng cao (chiếm 80% sản lượng xuất khẩu), vẫn ổn định về giá cả, do không cạnh tranh nhiều với Ấn Độ và Thái Lan ở phân khúc gạo chất lượng thấp; khẩn trương sửa đổi, bổ sung Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo.

Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẩn trương xây dựng cơ sở dữ liệu toàn diện về hoạt động sản xuất, xuất khẩu lúa gạo, bao gồm diễn biến thời tiết, dự báo thị trường, kỹ thuật canh tác, hoạt động chỉ đạo điều hành; đồng thời quy định trách nhiệm cung cấp, quyền tiếp cận thông tin của các chủ thể liên quan; "đặt hàng" nghiên cứu xây dựng mô hình kinh tế để phục vụ quản lý nhà nước về thị trường lúa gạo.

Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp ngành hàng lúa gạo khẩn trương hoàn thiện Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp bao gồm các dự án hỗ trợ kỹ thuật, tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia Đề án, phương pháp tính toán tín chỉ carbon… Các địa phương bám sát Luật Đất đai, các nghị định về đất nông nghiệp, hỗ trợ nông nghiệp, rà soát, có tiêu chí lựa chọn các vùng sản xuất lúa lớn để triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp, chuẩn bị và đề xuất gói chính sách đi kèm.

"Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần xem xét, quy hoạch lại mùa vụ, diện tích sản xuất lúa gạo theo hướng chủ động hạ tầng thuỷ lợi, giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu…", Phó Thủ tướng nói và lưu ý mọi chính sách cho ngành lúa gạo phải dựa trên tiêu chí liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân.

Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ khẩn trương xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu lúa gạo quốc gia mạnh mẽ, đăng ký bản quyền, chỉ dẫn địa lý, để phục vụ xúc tiến thương mại, mở thêm các thị trường mới; phát triển thương mại điện tử cho ngành hàng lúa gạo…

Phó Thủ tướng đề nghị, Ngân hàng Nhà nước ghi nhận các ý kiến của doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến thời hạn, hạn mức vay, điều kiện vay vốn và giải ngân; nghiên cứu gói tín dụng ưu đãi để doanh nghiệp đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động lưu trữ, chế biến, vận chuyển, xuất khẩu lúa gạo.

Theo baochinhphu.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định dịp lễ, tết

Đảm bảo cung cấp điện an toàn, ổn định dịp lễ, tết

Trong những ngày lễ, Tết, khi nhu cầu sử dụng điện tăng mạnh trên toàn tỉnh, bảo đảm nguồn điện an toàn, ổn định được ngành Điện lực Lào Cai xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Với các giải pháp triển khai đồng bộ và chủ động ứng trực, toàn ngành đang nỗ lực giữ dòng điện thông suốt, góp phần để Nhân dân đón lễ, Tết an toàn và ấm áp.

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Chi trả hơn 15,2 tỷ đồng dịch vụ môi trường rừng tại Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải

Năm 2025, Ban Quản lý Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Mù Cang Chải triển khai hiệu quả chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, chuyển hơn 15,27 tỷ đồng trực tiếp đến các cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân và nâng cao trách nhiệm bảo vệ rừng đặc dụng.

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Trung tâm SUDECOM: Hỗ trợ mô hình sinh kế cho 92 hộ thông qua dự án hỗ trợ mô hình sinh kế

Sáng 29/12, Trung tâm Hỗ trợ phát triển bền vững cộng đồng các dân tộc miền núi (SUDECOM) tổng kết Dự án “Hỗ trợ mô hình sinh kế và nâng cao năng lực tiếp cận chuỗi giá trị nông nghiệp cho cộng đồng nhằm góp phần tăng thu nhập và bình đẳng giới tại 3 xã của tỉnh Lào Cai”.

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Điểm sáng giảm nghèo của xã Bảo Hà

Với sự quan tâm sâu sát của Đảng, Nhà nước, cùng sự chỉ đạo quyết liệt của cấp ủy, chính quyền các cấp, thôn 1 Nhai Tẻn, xã Bảo Hà đã từng bước vượt qua khó khăn, đạt nhiều kết quả tích cực trong giảm nghèo bền vững, trở thành điểm sáng trong phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư.

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Bảo vệ rừng để phát triển du lịch

Ở thôn Cang Dông xã Púng Luông, người dân vẫn đang lặng lẽ gìn giữ một “báu vật” của thiên nhiên. Đó là khu rừng Pơ mu với khoảng 70 gốc, trong đó có nhiều cây có tuổi đời 50 đến 70 năm tuổi. Không chỉ là tài sản quý giá về sinh thái, cánh rừng Pơ mu ấy còn đang trở thành điểm tựa để người dân nơi đây phát triển du lịch bền vững, gắn sinh kế với trách nhiệm bảo vệ rừng.

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Nhà khoa học của nhà nông và hành trình đưa dược liệu bền vững đến với nông dân Lào Cai

Từ những cánh đồng Atiso xanh mướt đến rừng chè dây bạt ngàn, mô hình phát triển dược liệu của Công ty TNHH Một thành viên Traphaco Sa Pa đang góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, phát triển nông nghiệp xanh, bền vững và bảo tồn tri thức bản địa. Đặc biệt, nhà khoa học Đỗ Tiến Sỹ – Giám đốc công ty đã mang đến những giải pháp khoa học tiên tiến, mở ra hướng đi mới cho nông nghiệp vùng cao, góp phần xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

 Tỉ lệ che phủ rừng của xã Quy Mông đạt 73,3%

Quy Mông trồng rừng đạt 102% kế hoạch

Xã Quy Mông được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba xã Y Can, Quy Mông và Kiên Thành, có tổng diện tích 149,17 km2, diện tích rừng tự nhiên hơn 2.900 ha, tỷ lệ độ che phủ rừng của xã 73,3%. Năm 2025, công tác Quản lý bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng của xã Quy Mông đạt được nhiều kết quả tích cực.

Đưa Bảo Hà thành xã phát triển của tỉnh

Đưa Bảo Hà thành xã phát triển của tỉnh

Trước đây, trong định hướng phát triển đô thị của tỉnh, đô thị Bảo Hà - Tân An nằm trong chuỗi đô thị dọc sông Hồng, đô thị đầu chuỗi là thành phố Lào Cai, tiếp theo là các đô thị Phố Lu, Tằng Loỏng (huyện Bảo Thắng), Bảo Hà (huyện Bảo Yên), Tân An (huyện Văn Bàn). Đây là chuỗi đô thị trung tâm của tỉnh, nơi bố trí phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ logistics, được định hình là khu vực động lực quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế.

Đồng hành cùng hộ kinh doanh trong bước chuyển mới

Đồng hành cùng hộ kinh doanh trong bước chuyển mới

Từ ngày 1/1/2026, cơ chế thuế khoán sẽ chính thức chấm dứt, đánh dấu bước ngoặt đối với hàng triệu hộ kinh doanh trong cả nước; trong đó có hơn 38.800 hộ kinh doanh của tỉnh Lào Cai phải chuyển đổi. Trong “cuộc chuyển mình” này, ngành ngân hàng đóng vai trò như một “bệ đỡ” công nghệ, giúp hộ kinh doanh vượt qua rào cản công cụ số và quy trình vận hành số.

Mở hướng thoát nghèo bền vững ở xã Bát Xát

Mở hướng thoát nghèo bền vững ở xã Bát Xát

Với phương châm “trao cần câu thay vì cho con cá”, xã Bát Xát chú trọng phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong việc trực tiếp hỗ trợ, hướng dẫn người dân chuyển đổi tư duy sản xuất, từng bước vươn lên ổn định cuộc sống. Từ thực tiễn đó, nhiều hộ dân đã thoát nghèo, tạo sức lan tỏa tích cực trong cộng đồng.

Những mô hình dân vận khéo ở Châu Quế

Những mô hình dân vận khéo ở Châu Quế

Thời gian qua, xã Châu Quế đã triển khai và nhân rộng nhiều mô hình “dân vận khéo” gắn với phát triển kinh tế, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

Xu hướng phát triển xe điện tại Lào Cai

Xu hướng phát triển xe điện tại Lào Cai

Những năm gần đây, cùng với xu thế chuyển đổi xanh, các loại phương tiện sử dụng điện xuất hiện ngày càng nhiều tại Lào Cai. Từ xe máy điện, ô tô điện đến taxi điện, sự hiện diện ngày một rõ nét của dòng phương tiện này phản ánh sự thay đổi trong lựa chọn đi lại của người dân, cho thấy bước chuyển của giao thông đô thị theo hướng thân thiện với môi trường.

Khe Bàn: Đất khó "nở hoa" từ kinh tế rừng

Khe Bàn: Đất khó "nở hoa" từ kinh tế rừng

Từng là thôn vùng cao đặc biệt khó khăn, giao thông cách trở, Khe Bàn, xã Bảo Hà nay đã vươn lên nhờ phát triển kinh tế rừng với cây quế làm chủ lực. Dưới sự định hướng đúng đắn của cấp ủy, chính quyền cùng tinh thần cần cù, đoàn kết của đồng bào Dao, vùng đất khó năm nào đang “nở hoa”, mang lại cuộc sống ngày càng no ấm cho người dân.

[Infographic] Kết quả phát triển kinh tế - xã hội xã Bảo Hà năm 2025

[Infographic] Kết quả phát triển kinh tế - xã hội xã Bảo Hà năm 2025

Sau sáp nhập, Bảo Hà nổi lên với nhiều lợi thế: nông nghiệp hàng hóa phát triển, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năng động, hạ tầng giao thông thuận lợi và tài nguyên văn hóa - tâm linh phong phú. Năm 2025, UBND xã triển khai đồng bộ các giải pháp, vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, phát triển du lịch, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân và đóng góp tích cực vào ngân sách địa phương.

fb yt zl tw