LCĐT - Trong những năm qua, công tác quản lý các công trình thủy lợi do UBND xã, thị trấn quản lý thông qua các tổ thủy nông cơ sở. Mặc dù cơ bản đạt mục tiêu đề ra nhưng dường như các tổ thủy nông cơ sở chưa làm “tròn vai”. Do vậy, việc đưa quản lý công trình thủy lợi thành một nghề chuyên sâu đang là phương án được tính đến.
Toàn tỉnh hiện có 1.143 công trình thủy lợi, trong đó có 107 đập, hồ chứa nước (2 đập, hồ chứa loại lớn; 9 đập, hồ chứa loại vừa; 66 đập, hồ chứa loại nhỏ; 30 đập, hồ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định 114/2018/NĐ-CP của Chính phủ); 1.034 hệ thống đập dâng kênh dẫn tự chảy, 1 hệ thống trạm bơm điện nhỏ phục vụ tưới cho 7 ha lúa 2 vụ và gần 1.000 tuyến mương nhỏ lẻ nội đồng khác. Hệ thống mương các loại có tổng chiều dài gần 4.600 km, trong đó có gần 3.400 km đã được kiên cố hóa, đạt 73,21%; có trên 2.500 đầu mối thủy lợi (trong đó có 1.800 đầu mối kiên cố, đạt 70,48%). Hiện hệ thống công trình thủy lợi đang phục vụ chủ động tưới cho hơn 44.100 ha đất nông nghiệp, trong đó có khoảng 35.900 ha lúa, 6.700 ha rau màu, 1.600 ha nuôi thủy sản.
Nhờ hệ thống thủy lợi được đầu tư đồng bộ nên huyện Bát Xát đảm bảo nước phục vụ sản xuất nông nghiệp |
Để quản lý, khai thác hệ thống thủy lợi nói trên, toàn tỉnh đã có 152 ban quản lý công trình hạ tầng cấp xã, 1.231 tổ quản lý thủy nông cơ sở, 4 hợp tác xã có dịch vụ thủy lợi. Số lượng tổ chức quản lý cơ bản đạt mục tiêu mỗi công trình có 1 tổ chức chịu trách nhiệm quản lý công trình. Mô hình đã thành lập đa số là mô hình tự quản dựa vào cộng đồng, nhìn chung phù hợp với đặc điểm công trình thủy lợi của tỉnh với tuyến kênh dài, diện tích tưới manh mún, phân tán. Theo tổng hợp của Chi cục Thủy lợi (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tổng số người trực tiếp tham gia quản lý, vận hành công trình thủy lợi là 2.992 người, trong đó có 1.546 người đã được Chi cục Thủy lợi, phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn các huyện, phòng kinh tế thị xã, thành phố tập huấn nâng cao năng lực quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng công trình (đạt 51,7%).
Nguồn kinh phí hỗ trợ quản lý công trình thủy lợi hằng năm dựa vào nguồn ngân sách Trung ương cấp bù thủy lợi phí (hỗ trợ tiền sử dụng, sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi). Giai đoạn 2016 - 2020, Lào Cai được Trung ương cấp gần 260 tỷ đồng và tỉnh đã phân bổ hơn 130 tỷ đồng cho các địa phương thực hiện chính sách, số tiền còn lại được sử dụng vào đầu tư sửa chữa lớn công trình thủy lợi trong các năm. Nguồn kinh phí Trung ương cấp bù tiền sử dụng sản phẩm dịch vụ công ích thủy lợi hằng năm được cấp đầy đủ cho tỉnh theo kế hoạch, việc sử dụng kinh phí của các tổ chức quản lý cơ bản đảm bảo theo quy định. Việc thực hiện cơ chế khoán chi cho các tổ chức cộng đồng đã tiết kiệm kinh phí đưa vào sửa chữa công trình là 30%, ngoài ra nguồn vốn phân bổ cho xã duy tu, bảo dưỡng đáp ứng được tính chủ động của xã, tạo ra việc làm và thu nhập thêm cho người dân.
Hiện tỉnh đang thực hiện phương thức giao nhiệm vụ cho UBND cấp xã quản lý, khai thác công trình thủy lợi; UBND cấp xã khoán gọn kinh phí quản lý, duy tu, bảo dưỡng cho hợp tác xã/tổ hợp tác thực hiện. Tuy nhiên, đối chiếu quy định tại Điều 7, Điều 9 và Điều 12, Nghị định 32/2019/NĐ-CP của Chính phủ về “quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên” thì các đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý, khai thác công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng đủ điều kiện theo quy định. Mặt khác, cũng cần thấy rõ các tổ thủy nông cơ sở thực chất là tổ hợp tác, tập hợp những người có cùng sở thích, tổ chức hoạt động không chuyên nghiệp. Trước khi bắt đầu vào vụ sản xuất, các thành viên tổ thủy nông mới nạo vét lòng kênh mương, khơi thông dòng chảy để cung cấp nước cho sản xuất. Còn đối với những diện tích ruộng 1 vụ, gần như các công trình thủy lợi không được nạo vét, sửa chữa, ảnh hưởng đến hiệu quả cấp nước cũng như tuổi thọ của công trình.
Hệ thống kênh mương nội đồng ở xã Võ Lao (huyện Văn Bàn) được kiên cố hóa. |
Ông Nguyễn Quang Ngọc, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi cho biết: Đối với các công trình thủy lợi, việc quản lý, khai thác được thực hiện theo Luật Thủy lợi 2017, Nghị định 67/2018/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 05/2018/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Vì vậy, các huyện, thị xã, thành phố đề nghị hiện tại vẫn tiếp tục giao cho UBND cấp xã quản lý, khai thác công trình thủy lợi. Trong thời gian tới, các địa phương sẽ thành lập, kiện toàn tổ chức thủy lợi cơ sở theo đúng quy định để quản lý, khai thác công trình (xong trước ngày 1/7/2021) hoặc giao việc quản lý, khai thác các công trình thủy lợi cho các tổ chức, cá nhân có đủ năng lực theo quy định hiện hành.
Cũng theo ông Ngọc, hầu hết các xã đã thành lập hợp tác xã và hợp tác xã nông nghiệp. Do đó, các xã nên khuyến khích hợp tác xã bổ sung lĩnh vực quản lý công trình thủy lợi để tham gia quản lý, khai thác công trình thủy lợi. Ngoài ra, có thể tính đến phương án trung tâm dịch vụ nông nghiệp các huyện, thị xã tham gia quản lý, khai thác các công trình thủy lợi gắn với quản lý công trình cấp nước sinh hoạt tập trung. Có như vậy mới đảm bảo tính chuyên nghiệp cũng như đạt được mục tiêu đưa quản lý công trình thủy lợi trở thành một nghề. Chi cục Thủy lợi sẽ phối hợp với các địa phương thực hiện thí điểm mô hình hợp tác xã nông nghiệp tham gia quản lý, khai thác công trình thủy lợi tại các xã: Bảo Nhai (huyện Bắc Hà), Khánh Yên Thượng, Võ Lao (huyện Văn Bàn), Quang Kim (huyện Bát Xát), Sơn Hải (huyện Bảo Thắng)… và sau đó tham mưu cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục rà soát, đề xuất mô hình quản lý, khai thác công trình thủy lợi cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có đủ năng lực để quản lý, khai thác công trình.