'Chúng ta có thiên thời, địa lợi, nhân hòa để chinh phục mục tiêu tăng trưởng'

Tại Nghị quyết về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2025, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương tập trung chỉ đạo, điều hành, tăng trưởng GDP cả nước năm 2025 đạt ít nhất 8% và phấn đấu hai con số trong điều kiện thuận lợi hơn.

Đây là mục tiêu được cho là thách thức nhưng cũng khẳng định sự quyết tâm cao của Chính phủ: Đó không chỉ là đích đến, mà còn là lời cam kết về sự thịnh vượng và phồn vinh cho đất nước, để vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình. Để đạt được điều này, không chỉ cần sự lãnh đạo quyết liệt từ Đảng và Chính phủ, mà còn đòi hỏi sự đồng hành của toàn xã hội, đặc biệt là cộng đồng doanh nghiệp (DN) - động lực quan trọng của nền kinh tế. Nhân dịp đầu xuân năm mới, GS-TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá 15, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã trao đổi với PV về mục tiêu này.

GS-TS Hoàng Văn Cường.
GS-TS Hoàng Văn Cường.

PV: Thưa ông, mục tiêu tăng trưởng năm 2025 của Chính phủ cho thấy ý chí quyết tâm của một tầm nhìn vượt thời đại. Là một chuyên gia kinh tế, ông đánh giá tính khả thi của mục tiêu này như thế nào?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Trước tiên, phải khẳng định việc phấn đấu cho tăng trưởng hai con số không chỉ là mục tiêu táo bạo mà còn mang ý nghĩa chiến lược, đặt nền móng cho một giai đoạn phát triển vượt bậc. Nó đòi hỏi không chỉ sự tăng trưởng về số lượng, mà còn sự chuyển biến về chất lượng, từ cải cách thể chế, đổi mới sáng tạo đến nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Mục tiêu tăng trưởng 2 con số không chỉ là khát vọng mà hoàn toàn có cơ sở để biến thành hiện thực. Khát vọng là vì Việt Nam đặt mục tiêu năm 2045, khi kỷ niệm100 năm thành lập nước, nước ta sẽ là nước phát triển có thu nhập cao. Bài học mà phần lớn các con rồng Châu Á đạt được từ 1 nước thu nhập trung bình, thu nhập thấp muốn trở thành nước thu nhập cao, nước phát triển, là phải có hàng chục năm đạt được tăng trưởng 2 con số: Từ Singgapore, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc lục địa… Vì thế, Việt Nam muốn thành nước phát triển thu nhập cao cũng phải có được ít nhất chục năm tăng trưởng 2 con số. Và đây là thời điểm để bắt đầu.

PV: Ông bảo đây là thời điểm để bắt đầu, vậy dựa trên cơ sở khoa học cũng như cơ sở thực tiễn gì?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Việt Nam có cơ sở, có điều kiện để đạt được. Điểm tự tin nhất của chúng ta là trong bối cảnh kinh tế thế giới rơi vào thời kỳ đen tối của đại dịch, tình trạng lạm phát cao, thế giới tăng trưởng âm, thì Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng dương, được đánh giá là ngôi sao sáng trên nền kinh tế - đây là khả năng, tiềm lực phát triển mà chúng ta có.

Thứ 2, trong tương lai, Việt Nam vẫn đang là điểm đến đầu tư, là địa bàn được các nhà đầu tư lựa chọn hàng đầu - đây là tiềm năng, lợi thế rất rõ. Bên cạnh đó, chúng ta có lợi thế rất lớn nữa đó là nguồn nhân lực đang nằm trong thời kỳ dân số vàng, lao động trẻ. Tuy nhiên, hiện năng suất lao động đang thấp, nếu chúng ta tăng năng suất lao động lên thì sẽ đẩy được tăng trưởng vượt bậc.

Mục tiêu tăng trưởng là lời cam kết về sự thịnh vượng và phồn vinh cho đất nước.
Mục tiêu tăng trưởng là lời cam kết về sự thịnh vượng và phồn vinh cho đất nước.

PV: Như vậy, có thể nói chúng ta có thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tuy nhiên, không vì thế chúng ta được chủ quan, vì mục tiêu đặt ra là rất lớn. Và, chúng ta cần nhận diện, cần lường trước những khó khăn, thách thức gì để có các phương án đối phó và vượt qua?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Đúng vậy, để đạt được tăng trưởng 2 con số, trước tiên, phải làm sao khai thác được nguồn lực, mà cốt yếu là tăng năng suất lao động. Câu hỏi chúng ta đặt ra là tại sao năng suất lại thấp, còn thấp nhất thế giới? Vì hiện nay cơ cấu lao động của chúng ta hơn 60% là lao động phi chính thức. Đây là những lao động không có hợp đồng, chủ yếu là lao động nông nghiệp, lao động tự do, kinh doanh hộ gia đình, thích thì mở cửa, không thích thì đóng cửa - không có quy tắc, không có quy trình, giờ giấc cụ thể. Trong số này 40% lại ở nông thôn. Để khắc phục, phải hút bớt lao động ở khu vực này sang khu chính thức có hợp đồng, có giờ giấc, quy trình… tại các công xưởng, nhà máy, công ty.

Theo tôi đây là bài toán bắt buộc phải thực hiện. Thúc đẩy phát triển khu vực chính thức bằng cách thúc đẩy DN phát triển, khởi nghiệp, sáng tạo, hình thành các công ty. Tôi muốn lưu ý chúng ta cần có chỉ tiêu đánh giá DN: Không phải chỉ là nộp bao nhiêu tiền thuế, mà là tạo ra bao nhiêu việc làm, mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, thu hút nhiều lao động vào khu vực chính thức.

Nhưng, thúc đẩy khu vực này là ai? Đó là gồm cả DN nhà nước, DN tư nhân, đặc biệt khuyến khích khu vực DN tư nhân để thu hút lực lượng lao động. Phải thúc đẩy kinh tế tư nhân.

PV: Vấn đề là ngay cả khu vực chính thức, chúng ta cũng chưa thực sự tạo được lợi thế, vì nhược điểm lớn nhất vẫn là lao động trình độ thấp?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Đây là vấn đề tôi muốn nhấn mạnh. Hiện nay, năng suất lao động chúng ta thấp là vì những người làm trong các khu vực chính thức trong các công ty, nhà máy lại làm ở khâu có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị: Ví dụ điện tử máy tính, điện thoại… chỉ làm ở khâu lắp ráp, hay may mặc dù xuất khẩu lớn nhưng cũng chỉ gia công, còn những khâu tạo ra giá trị lớn như là thiết kế áo, tạo nên thương hiệu, bán sản phẩm thì mình lại không làm được. Nền kinh tế chúng ta là nền kinh tế gia công, nền kinh tế sử dụng lao động giá rẻ, nếu chúng ta có tăng lên thì cũng không ăn thua. Ví dụ khu vực FDI, chúng ta gần 70% là nguyên liệu từ bên ngoài, còn lao động chúng ta chỉ tạo ra giá trị mới khoảng 30%. Như vậy, chúng ta đang tăng trưởng hộ nước ngoài, tức là chúng ta đang làm thuê. Muốn khắc phục, phải tái cấu trúc hoạt động sản xuất, không gia công, không làm thuê nữa, mà phải làm chủ chuỗi giá trị. Muốn thế, phải nghĩ ra cái mới, không thể bắt chước người ta.

Vì thế phải khuyến khích đổi mới sáng tạo, dựa vào khoa học công nghệ tri thức mới, khuyến khích khởi nghiệp. Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia ra đời là cơ sở để chúng ta chuyển đổi; phải đi đầu thì mới theo kịp được cái mới như trí tuệ nhân tạo, công nghệ số. Về lĩnh vực này, chúng ta cũng mới, thế giới cũng mới, vậy ai đầu tư nhiều, ai đi nhanh, hiệu quả sẽ thắng, làm chủ chuỗi công nghệ. Lao động Việt Nam có tư duy tốt, thông minh và nhanh nhẹn, nắm bắt khoa học công nghệ nhanh. Học sinh chúng ta toán học tốt - đây là cơ sở để chúng ta có thể làm chủ khoa học công nghệ về số, trí tuệ nhân tạo, nghiên cứu thiết kế bán dẫn. Nghị quyết số 57 ra đời rất kịp thời, mở đường cho thời kỳ vươn mình, làm chủ khoa học công nghệ mới, làm chủ trí tuệ nhân tạo, công nghệ số, phát triển năng lượng xanh, năng lượng mới… Chúng ta phải coi trọng tái cấu trúc lại nền kinh tế, sẵn sàng từ bỏ những cái lạc hậu, nhìn tới tương lai để dẫn đầu.

PV:Vâng, nhưng có lẽ để thay đổi con người, trước tiên cần có môi trường, có thể chế phù hợp. Nghị quyết 57 là cơ sở, nhưng cần có nhiều hơn thế để DN phát triển?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Để thực hiện, doanh nhân là người thực hiện sứ mệnh, DN phải bắt tay vào làm từ thực tiễn. Có 2 khối DN triển vọng: DN nhà nước nhiều năm qua giữ vị trí quan trọng của nền kinh tế, chiếm những ngành, lĩnh vực quan trọng, được nhà nước đầu tư vốn lớn nhưng không phát triển được, không tạo được vị thế, không xứng tầm, vì cơ chế quản lý đang trói buộc, nên phải có các biện pháp cởi trói cho DN nhà nước. Hiện chúng ta đang sửa Luật số 69/2014/QH13, nhà nước không can thiệp, mà để DN toàn quyền. Ví dụ muốn xin vốn phải xin vốn Quốc hội là vấn đề bất cập, vì Quốc hội làm sao biết rõ công việc kinh doanh để mà quyết? Điều này tạo ra cơ chế xin cho, cần phải loại bỏ. Cần trao quyền, trao vốn cho DN, nếu anh để thất thoát, thâm hụt, kinh doanh không hiệu quả sẽ bị xử lý, nếu có tư túi phải xử lý hình sự, chứ không phải nhà nước can thiệp vào.

Thứ 2 là DN tư nhân phải trở thành trụ cột. Nghị quyết số 10-NQ/TW nói rằng DN tư nhân là động lực, nhưng tôi cho rằng DN trong nước phải là trụ cột. Chúng ta không thể phụ thuộc vào nhà đầu tư, DN nước ngoài, mà DN trong nước phải làm chủ. Hầu hết các nước phát triển phải có DN trụ cột, điển hình như Hàn Quốc có Samsung và Huyndai... Tuy nhiên, muốn DN nhà nước, DN tư nhân trở thành trụ cột, không thể để DN tự bươn chải mà nhà nước phải có sự hỗ trợ, ví dụ đặt hàng. Chẳng hạn với đường sắt tốc độ cao, cần đặt hàng cho DN trong nước, họ sẽ mua công nghệ nước ngoài, sản xuất đường ray tiêu chuẩn và các công nghệ khác. Như vậy, thay vì nhập khẩu từ nhà cung cấp nước ngoài rất phụ thuộc, chúng ta đặt hàng cho 1,2 DN. Đây sẽ là các DN rường cột, thành tập đoàn mạnh về tất cả những công trình liên quan tới giao thông, đường ray, đường sắt, tàu máy, toa xe, xây dựng cầu cảng, khoan núi khoán hầm…, không phải lệ thuộc vào nước ngoài. Hiệu quả đầu tư cao, thời gian rút ngắn, toàn bộ vốn đầu tư công sẽ quay vòng trong nước tạo tăng trưởng, không rơi ra nước ngoài.

PV: Nhìn lại, thì đây vẫn là câu chuyện thể chế, thưa ông?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Đúng vậy, đây là câu chuyện về thể chế. Cần thay đổi tư duy về thể chế, cải cách về thể chế, không thể không quản được thì cấm, mà phải thay đổi căn bản. Luật pháp không quy định anh được làm cái gì, mà là anh làm như thế nào để hiệu quả. Đưa ra nguyên tắc để tăng tính chủ động sáng tạo. Vì như hiện nay, quy định anh chỉ được làm cái gì đã tạo ra những người máy xơ cứng, không sáng tạo, vì sáng tạo là sai, là vi phạm. Luật quy định khung, nguyên tắc, sau đó lại một loạt nghị định, thông tư trói buộc. Luật đang quy định cầm tay chỉ việc - phải đổi mới. Nên để cho DN có quyền. Nhưng phải có cơ chế giám sát, không để DN tự tung tự tác. Đó chính là sự công khai minh bạch, giải trình khi cần thiết. Nếu tháo gỡ theo hướng như thế sẽ cải cách được, giải phóng nguồn lực, khuyến khích sự đổi mới sáng tạo của người thực thi.

PV: Thực ra, những điều ông nói, năm 2024 chúng ta đã bắt đầu triển khai, và đây sẽ là những thuận lợi để chúng ta bước tiếp?

GS-TS Hoàng Văn Cường: Như tôi đã nói, năm 2025, chúng ta có thuận lợi từ đà tăng trưởng 2024 đều, ổn định, xu thế phục hồi tốt, chớp được thời cơ, tạo được nền tảng. Thứ 2 là có được 1 phần bước đầu trong chuyện tháo gỡ nút thắt về thể chế từ việc sửa 3 luật: Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản; rồi 1 luật sửa 9 luật, một loạt luật khác cũng theo tinh thần tháo gỡ. Bên cạnh đó, năm 2025 là năm cuối của nhiệm kỳ, nên các đơn vị sẽ dồn sức để đạt các mục tiêu đặt ra để về đích. Ngoài ra, các động lực cho tăng trưởng truyền thống hiện đang có cơ sở để duy trì như nguồn lực đầu tư công, dư địa đầu tư công dồi dào vì nợ công thấp; Xuất khẩu dồi dào, tiêu dùng phục hồi, đặc biệt phục hồi mạnh nhất là du lịch. Và hơn hết, chúng ta có sự đồng lòng, quyết tâm cao của toàn xã hội. Nghĩa là chúng ta có thiên thời, địa lợi, nhân hoà nên chúng ta hoàn toàn có thể vững tin thực hiện.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!

cand.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Ngay sau khi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động, phường Trung Tâm, tỉnh Lào Cai đã tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường.

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Trong những năm gần đây, Hội Nông dân xã Bản Lầu, đã đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác hội và phong trào nông dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống hội viên. Với hơn 3.300 hội viên sinh hoạt tại 36 chi hội, phong trào phát triển kinh tế tập thể ngày càng lan tỏa, trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp địa phương.

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, huyện Mường Khương (trước đây) xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, thiếu vốn vẫn là “nút thắt” lớn đối với nông dân. Do vậy, nguồn tín dụng ngân hàng kịp thời, phù hợp của Agribank Chi nhánh Mường Khương Lào Cai II đã trở thành điểm tựa quan trọng, giúp người dân đầu tư phát triển các mô hình cây trồng có giá trị kinh tế cao.

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Giá rau xanh trên thị trường đang vào thời điểm đắt chưa từng có, nguyên nhân được cho là đầu vụ, các địa phương chưa thu hoạch rau vụ đông, bên cạnh đó, thiên tai khiến nhiều nơi không thể sản xuất rau xanh. Biến động thị trường này lại đang đem đến cơ hội tăng thu nhập cho người trồng rau trên địa bàn phường Sa Pa và một số vùng lân cận có khí hậu tương tự.

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Trên những thửa ruộng, bãi màu ở thôn Liên Hà 6, xã Bảo Hà, những luống rau vụ đông xanh mướt, thẳng hàng nối tiếp nhau đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Từ việc tận dụng diện tích đất sau thu hoạch vụ mùa, gia đình ông Lê Công Tâm được xem là điển hình trong phát triển kinh tế từ sản xuất rau.

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Năm 2025, tỷ trọng kinh tế số của tỉnh đạt 9,46% GRDP, phản ánh sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu kinh tế. Khoảng 60% doanh nghiệp trên địa bàn đã chủ động ứng dụng các nền tảng số vào quản trị, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, qua đó tối ưu hóa quy trình, giảm chi phí, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Giai đoạn 2023 - 2025, Hội Nông dân tỉnh Lào Cai đã thành lập mới 98 chi hội nông dân nghề nghiệp, nâng tổng số toàn tỉnh lên 166 chi hội với khoảng 4.500 thành viên, đồng thời duy trì 687 tổ hội nông dân nghề nghiệp với hơn 8.300 hội viên tham gia.

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Thời gian qua, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng ở các xã vùng cao như Hạnh Phúc, Phình Hồ, Trạm Tấu được triển khai đồng bộ. Các mô hình sản xuất mới từng bước tạo chuyển biến rõ nét trong thu nhập của người dân, góp phần giảm nghèo đa chiều, bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Đổi thay Lùng Phình

Đổi thay Lùng Phình

Nhờ sự quan tâm và tập trung nguồn lực cho phát triển hạ tầng, chuyển đổi mô hình sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân, diện mạo nông thôn ở xã vùng cao Lùng Phình ngày càng đổi mới, khang trang.

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Ngoài phát triển nông nghiệp với các mô hình trồng rau, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu hay phát triển du lịch, nhiều nông dân trên địa bàn xã Lùng Phình đã mạnh dạn đưa giống cây trồng mới vào sản xuất hoặc đầu tư mở xưởng mộc, chế biến gỗ... góp phần nâng cao thu nhập và từng bước giảm nghèo.

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Tháng 12, sương núi Bản Xèo buông xuống thành những dải mỏng như lụa, phủ lên những triền đá xám lạnh. Giữa cái giá rét của vùng cao, sắc cam ấm từ những vườn quýt đang độ chín như đánh thức cả sườn núi. Đó là vườn quýt của anh Vàng Văn Dũng, người đầu tiên đưa giống quýt về trồng tại xã Bản Xèo, mở ra một hướng phát triển kinh tế mới cho địa phương.

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Phát huy lợi thế về khí hậu ôn đới, đất đai rộng và màu mỡ, những năm gần đây xã Lùng Phình xác định phát triển nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao là hướng đi trọng tâm nhằm tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập và giảm nghèo cho Nhân dân. Hiện địa phương đang thu hút doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư sản xuất nông nghiệp hiện đại, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, gắn kết chặt chẽ giữa khâu sản xuất và tiêu thụ.

fb yt zl tw