LCĐT - Thời gian gần đây, trên địa bàn huyện Mường Khương có thêm nhà máy chế biến chè của Hợp tác xã chè Mường Khương đặt tại xã Lùng Vai đi vào hoạt động. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người trồng chè địa phương có thêm lựa chọn nơi bán chè búp tươi và việc tiêu thụ cũng thuận lợi hơn.
|
Theo lẽ tự nhiên, người trồng sẽ bán chè búp tươi cho đơn vị có giá thu mua cao hơn, nhưng điều này lại khiến một số doanh nghiệp chế biến chè truyền thống trên địa bàn lo ngại bị ảnh hưởng nguồn cung nên đã có những phản ứng gay gắt để giữ thị phần. Từ đây, bài toán đặt ra là cần tái cơ cấu vùng nguyên liệu chè Mường Khương để phá thế độc quyền trong thu mua, giúp ngành chè phát triển bền vững.
Từ năm 2000, tại huyện Mường Khương, vùng trồng chè nguyên liệu ở các xã Bản Lầu, Bản Sen, Lùng Vai, Thanh Bình, Nấm Lư, Lùng Khấu Nhin… được xây dựng gắn với hoạt động của Nông trường Chè Thanh Bình. Nông trường đã xây dựng và thực hiện dự án phát triển vùng nguyên liệu chè theo chủ trương của tỉnh như: Quyết định số 1661 ngày 29/10/1999 của Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt Dự án phát triển vùng nguyên liệu chè tập trung giai đoạn 1999 - 2010; Quyết định số 1338 ngày 10/6/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc mở rộng vùng chè tập trung lên 4 xã vùng cao của huyện Mường Khương giai đoạn 2002 - 2010…
Trong suốt 20 năm qua, vùng trồng chè nguyên liệu ở các xã khu vực hạ huyện của Mường Khương đã phát triển ổn định, tăng quy mô cả về diện tích, năng suất và sản lượng, giải quyết việc làm cho hàng chục nghìn lao động nông thôn. Năm 2000, huyện chỉ có 102,5 ha chè nhưng đến năm 2020 đã tăng lên gần 3.000 ha.
Cùng với sự phát triển của vùng trồng chè nguyên liệu, trên địa bàn huyện có một số cơ sở chế biến cũng được xây dựng, góp phần tiêu thụ chè búp tươi cho người dân, trong đó có nhà máy chế biến của Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình.
Những năm trước, việc mua bán chè diễn ra dưới sự chủ trì của Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình với những quy định được đơn vị đề ra, sau đó thỏa thuận với người trồng chè về cách thức thu hái, giá mua, cách trừ phần trăm tích nước của búp chè và phân loại chè… Đến giữa tháng 4/2021, nhà máy chế biến chè của Hợp tác xã chè Mường Khương (công suất 950 tấn chè khô/năm) xây dựng tại xã Lùng Vai đi vào hoạt động, cuộc cạnh tranh nguyên liệu chè búp tươi đầu vào cho các nhà máy trên địa bàn huyện Mường Khương vì thế nóng dần.
Cũng từ đây xuất hiện những vấn đề gây tranh cãi như: Doanh nghiệp nào có quyền liên kết với người dân ở vùng nguyên liệu chè truyền thống thuộc 6 xã hạ huyện? Đơn vị nào được quyền thu mua chè búp tươi của các hộ? Cơ chế nào được triển khai để người dân yên tâm trồng chè? Và sau nhiều năm, giờ người trồng chè đã có quyền lựa chọn bán cho ai, bán với giá bao nhiêu và hợp tác lâu dài với doanh nghiệp nào…
Theo ông Trương Văn Kiều, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình, vai trò của đơn vị với sự phát triển của vùng chè Mường Khương đã được duy trì liên tục nhiều năm, thể hiện qua sự liên kết trồng, chăm sóc, quản lý về kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp với các hộ trồng chè.
Cụ thể, đối với các hộ trồng chè, nhiều năm qua, Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình hỗ trợ kỹ thuật, thâm canh tăng năng suất, sử dụng vật tư, phân bón tạo nên vùng chè sạch, cùng với đó bao tiêu sản phẩm cho người dân. Công ty cũng định hướng cho hộ trồng chè bắt kịp xu thế sản xuất chè chất lượng cao, quản lý về tổ chức sản xuất theo mô hình cụm (đội) sản xuất chè mà công ty xây dựng… Vì thế, vùng nguyên liệu này thuộc về Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình.
Còn theo phản ánh của nhiều hộ trồng chè ở các xã Bản Lầu, Lùng Vai, Thanh Bình thì những năm trước, việc thu hái và bán chè búp tươi hoàn toàn phụ thuộc vào phía doanh nghiệp, thậm chí hợp đồng liên kết tiêu thụ sản phẩm cũng do doanh nghiệp soạn thảo, sau đó yêu cầu người dân ký, một số hộ còn không được giữ hợp đồng.
Ông Hoàng Văn Lợi (thôn Đồng Căm, xã Lùng Vai) cho biết: Khi có thêm một nhà máy đi vào hoạt động, người trồng chè như tôi rất vui vì không còn phải lo đầu ra cho sản phẩm, giá thu mua có sự cạnh tranh, chè búp tươi không bị ế hoặc quá lứa phải bỏ đi như trước.
Từ thực tế việc liên kết trồng, chăm sóc, thu mua chè nguyên liệu trên địa bàn huyện Mường Khương cũng đặt nhiều câu hỏi: Liệu việc thu mua chè búp tươi của doanh nghiệp (chủ yếu là Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình) đã được thực hiện theo cơ chế thị trường? Có hay không việc ép giá theo kiểu độc quyền trong thu mua? Bởi, khi bán 100 kg chè thì người dân bị trừ phần trăm tích nước, trong đó phân loại là 3 mức giá khác nhau nên mới có chuyện chè bán 7.500 đồng/kg nhưng thực tế tiền thu về bình quân chỉ ở mức 5.000 - 5.500 đồng/kg.
Theo ông Lê Thanh Hoa, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mường Khương, không thể phủ nhận sự đồng hành, gắn bó và vai trò của Nông trường Chè Thanh Bình trước đây và Công ty Cổ phần Chè Thanh Bình hiện nay với sự phát triển vùng nguyên liệu chè ở Mường Khương. Tuy nhiên, nếu khẳng định vùng nguyên liệu này do công ty xây dựng và thuộc quyền quản lý của công ty là không phù hợp. Vai trò của doanh nghiệp trong phát triển vùng nguyên liệu chè Mường Khương chỉ thể hiện trong thời gian doanh nghiệp còn là nông trường quốc doanh, còn trong những năm gần đây, vùng chè do người dân phát triển và được Nhà nước hỗ trợ qua lồng ghép các chính sách tại địa phương, vì vậy vùng chè Mường Khương là của người dân.
Sau nhiều năm mong chờ, giờ đây các hộ trồng chè ở các xã vùng hạ huyện Mường Khương đã thấy tự tin. Người dân làm việc với tâm thế mới bởi họ được chủ động trong tất cả các khâu thuộc phần việc của mình. Vì thế, doanh nghiệp nào muốn được thu mua chè búp tươi của người dân thì hãy tìm tiếng nói chung về cách làm và có sự chia sẻ lợi nhuận hợp lý, còn người dân sẽ hợp tác với doanh nghiệp nào giữ chữ tín và trân trọng sức lao động của họ.
-------------
Bài 2: Có hay không việc tranh mua, tranh bán?