Vị ngọt chè xuân

Hoa chè nở trắng cả lối mòn dấu chân mẹ mấy chục năm đội chè từ trên nương về nhà. Cũng màu hoa cánh trắng dịu dàng điểm nhụy vàng mang cả hương thơm dìu dịu. Hương vị trà xanh ngọt mềm đi khắp mọi nhà mang theo mùa xuân ấp áp tươi vui…

Nhà tôi nằm trên một ngọn đồi mênh mông nắng, mênh mông gió, xung quanh nhà chỉ có chè là chè. Dù trời nắng, mưa rào ào ạt hay ngày đông giá rét thì chè vẫn chồi ra những búp mầm xanh mướt. Chè không quản khó nhọc, cần mẫn phủ xanh những quả đồi vùng quê tôi.

20220204_134845.jpg
Hái chè vụ xuân. Ảnh: Kiều Lê

Bố mẹ tôi cả năm quanh quẩn với cây chè. Hết thu hái lại đến làm cỏ, bón phân. Những ngày nghỉ, tôi cũng thường đi hái chè giúp mẹ. Mùa hè, quê tôi nắng lắm, mưa nhiều, thuận lợi cho cây chè phát triển tốt, rất nhanh được thu hái. Khi mùa thu đến thì cây chè ra búp chậm hơn và mùa đông thì búp lên càng chậm. Thường thường khi mùa đông đến, thời tiết vùng Tây Bắc vô cùng khắc nghiệt, cây chè thu mình lại để chịu đựng cái khô hạn buốt giá và sương muối. Sản lượng chè thu hái về mùa đông cũng vì đó mà rất thấp, cả tháng chỉ thu được một lứa. Bố kể cho tôi nghe, ngày tôi còn bé xíu, bố mẹ mới ra ở riêng. Đến mùa đông, chè cho sản lượng thấp nên bố mẹ bàn với nhau bớt một khoảng đất dưới chân đồi, dễ dẫn nước để trồng rau màu. Đất quê tôi tơi xốp giàu dinh dưỡng, những luống rau xanh tốt bời bời giúp cuộc sống gia đình phần nào bớt khó khăn.

Còn với cây chè, dù ngày đông cho sản lượng thấp nhưng càng về cuối đông khách đến mua chè càng nhiều. Mẹ thường không đủ chè cung cấp cho khách quen. Hái chè trong thời điểm này cũng rất công phu. Mùa hè, chè ra búp chi chít, xanh tốt bời bời mẹ có thể dùng liềm cắt. Mỗi ngày mẹ có thể thu hái cả tạ chè tươi nhưng đến ngày đông - xuân thì khác hẳn, cả ngày mẹ phải tỉ mẩn đứng bên hàng chè nảy từng búp nên nhiều nhất cũng chỉ thu hái được đôi chục cân búp tươi.

20220204_141949.jpg
Những búp chè xuân. Ảnh: Kiều Lê

Chè xuân dù ít ỏi nhưng vị chát và thơm đậm đà hơn, “được nước hơn” chè thu hái vào những mùa khác trong năm. Do sản lượng chè xuân thấp nên đa phần các hộ làm chè về mùa này thường không chăm bón và thu hái. Họ tập trung những công việc khác cho thu nhập cao hơn. Mẹ tôi thì khác, mẹ chỉ làm thêm một ít rau dưới chân đồi còn đa phần dành để chăm sóc chè. Mẹ bảo, mình tần tảo với chè, đảm bảo sản phẩm cung cấp cho khách quen. Đặc biệt vào dịp tết đến, nhà nào cũng cần vài cân chè để uống, biếu, tặng người thân. Mẹ không muốn khách quen một năm nào đó phải đi tìm địa chỉ khác mua chè vào dịp tết. Lần đầu lên nương chè hái cùng mẹ ngày cuối năm, những cơn gió bấc thông thốc thổi táp vào mặt lạnh khô. Tôi thường thiếu tính kiên nhẫn, chỉ hái vội những búp lớn nhô lên trên ngọn và thường bỏ hàng chạy rất nhanh. Mẹ thì tỉ mẩn đứng bên hàng chè nảy từng búp lớn, nhỏ. Mẹ bảo tôi:

- Con gái phải học tính kiên trì.

Tôi phân bua:

- Hái mãi không được một nắm, con nản mẹ ạ!

Mẹ vẫn kiên nhẫn thuyết phục con gái:

- Mùa này chỉ được có vậy. Cây cho búp để hái, có thêm thu nhập là quý lắm rồi. Việc nhỏ con không làm được thì sau này làm sao làm được việc lớn!

Dù biết lời mẹ dạy là đúng, nhưng cô gái mới lớn trong tôi vẫn chưa tập làm quen ngay với công việc này. Và tôi thường “trốn” việc bằng cách dềnh dàng cho đến non trưa thì gom hết chè cho vào bao tải và bắt chước mẹ đội về nhà. Tôi bảo với mẹ: Con về trước nấu cơm, mẹ hái một chút nữa rồi về ăn cơm mẹ nhé! Mẹ nhìn theo con gái, cười hiền khô trong cái lạnh cắt thịt ngày giáp tết.

Sau bữa cơm trưa, mẹ lại nhanh chóng lên nương hái chỉ đủ mẻ sao. Nhà bác Chải - hàng xóm có dụng cụ sao chè. Mẹ thường chỉ hái đến ba giờ chiều là mang về nhà bác thuê sao. Bác Chải đốt lò bằng củi. Những thanh củi to cháy đượm trong lò. Bác và anh Trung cho chè vào chiếc lò to như chiếc thùng phi. Chè trong lò quay đều, anh Trung trông lửa làm sao để bếp ở nhiệt độ thích hợp nhất. Anh bảo từ khi anh học nghề sao chè đã được mẹ anh truyền dạy cho cách canh lửa phù hợp với từng loại chè; nhiệt độ không chỉ hợp với từng loại chè mà còn phải phù hợp với từng mùa, từng giai đoạn trong một mẻ sao. Sau khi làm khô tới độ vừa phải thì cho vào cối vò chè.

Công đoạn vò chè cũng phải canh chừng cẩn thận. Cho đủ số chè, cối có thể vò và vò không quá nhanh cũng không quá chậm với một thời gian vừa phải, khi ấy các lá chè bị dập, dịch tiết ra bề mặt thớt, ướp hương vào từng búp chè xoăn lại tạo hình. Đến khoảng nửa đêm thì mẻ chè hái lúc ban ngày đã thành phẩm. Bác Chải đóng gói vào bao nilong to cẩn thận cho mẹ. Chiều hôm sau, trong khi chờ bác sao mẻ mới, mẹ mang chè về đổ ra nia, nhặt và sàng sảy sạch những cọng, lá, chè cám… rồi đóng gói.

Mùa qua mùa, ngày qua ngày, cả ngôi nhà tôi lúc nào cũng thơm mùi trà khô. Đôi bàn tay mẹ nhăn nheo, thô ráp nhưng đổi lại là niềm vui của khách hàng. Niềm vui của những người mê thức uống dân dã mà tao nhã ý vị. Và hơn hết cả, đôi bàn tay của mẹ với hương chè vấn vít quanh người đổi lấy những đồng tiền dù ít ỏi những chị em chúng tôi được học hành đến nơi đến chốn.

Gió bấc tràn về, đường phố Hà Nội - nơi tôi đang học tập - trở nên đẹp và lãng mạn với những gánh hàng hoa rực rỡ sắc màu. Tôi mải miết nhìn những bông cúc họa mi rung rinh trên bàn học. Không hiểu sao tôi lại nghĩ, những bông cúc họa mi trắng tinh khôi kia là những bông hoa chè trên nương chè xanh mướt nơi quê nhà.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Gợi mở thêm hướng đi cho nhiếp ảnh

Gợi mở thêm hướng đi cho nhiếp ảnh

Ngành nhiếp ảnh Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ cùng sự bùng nổ của công nghệ thông tin, song cũng đối mặt nhiều thách thức như định giá sản phẩm, bảo vệ bản quyền và cơ hội nghề nghiệp. Mới đây, mô hình Hợp tác xã Nhiếp ảnh và Ứng dụng đầu tiên đã hình thành tại thành phố Đà Nẵng. Nếu ý tưởng này thành công, hy vọng sẽ thúc đẩy phát triển lĩnh vực nhiếp ảnh một cách chuyên nghiệp, bền vững.

Thêm niềm vui sống từ yêu mến thơ ca

Thêm niềm vui sống từ yêu mến thơ ca

Đầu xuân, khi vùng núi cao Bắc Hà chìm trong sắc trắng mận Tam hoa, tôi tình cờ gặp bà Đặng Thị Nguyệt Ánh, 75 tuổi, ở tổ dân phố Bắc Hà 2, thị trấn Bắc Hà, huyện Bắc Hà tại Hội báo Xuân. Đối với người yêu thơ, thích đọc sách như bà Ánh thì đây chính là cơ hội để được thỏa mãn đam mê đọc và bổ sung kiến thức bổ ích từ những cuốn sách, tờ báo, tạp chí từ khắp mọi miền.

Chân dung nhà báo Ma Văn Kháng

Gặp gỡ nhà văn Ma Văn Kháng (Phần 2) Chân dung nhà báo Ma Văn Kháng

Nhà văn Ma Văn Kháng hiện đang sinh sống cùng gia đình ở Thủ đô Hà Nội. Năm nay, nhà văn bước vào tuổi 89, nhưng tinh thần và sức sáng tạo của ông thì vẫn rất mạnh mẽ. Ông vẫn là cộng tác viên thường xuyên và đều đặn của tạp chí Xây dựng Đảng, Báo Văn nghệ. Đặc biệt, ông vẫn thường xuyên gửi bài viết, truyện ngắn cộng tác với "Báo nhà" - tên gọi thân thương mà nhà văn dành cho Báo Lào Cai.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Gặp gỡ nhà văn Ma Văn Kháng (Phần 1)

Gặp gỡ nhà văn Ma Văn Kháng (Phần 1)

Nhà văn Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại Hà Nội. Ông đã có hơn hai thập kỷ gắn bó với mảnh đất biên cương Lào Cai. Đặc biệt, những năm tháng công tác tại Báo Lào Cai đã giúp ông đi sâu vào cuộc sống vùng cao, tích lũy vốn hiểu biết phong phú và truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Xa Phủ... Để hiểu hơn về cuộc đời, sự nghiệp của ông, mời quý vị và các bạn cùng theo dõi cuộc gặp gỡ của phóng viên Báo Lào Cai với nhà văn Ma Văn Kháng.

Thách thức trong bảo tồn hai chiếc thuyền cổ ở Bắc Ninh

Thách thức trong bảo tồn hai chiếc thuyền cổ ở Bắc Ninh

Liên quan đến việc khai quật 2 chiếc thuyền cổ ở khu phố Công Hà, phường Hà Mãn, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ngày 26/3, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh phối hợp với Viện Khảo cổ học tổ chức hội thảo đánh giá sơ bộ kết quả khai quật thuyền cổ.

Bắc Ninh bùng nổ tour du lịch miễn phí theo dấu MV 'Bắc Bling'

Bắc Ninh bùng nổ tour du lịch miễn phí theo dấu MV 'Bắc Bling'

Khi MV "Bắc Bling (Bắc Ninh)" của ca sĩ Hòa Minzy được công bố và lan tỏa mạnh mẽ trên các nền tảng số, tỉnh Bắc Ninh đã nhanh chóng triển khai chương trình tour du lịch miễn phí mang tên "Tinh hoa văn hóa Bắc Ninh – Sắc màu di sản". Đây được xem là bước đi nhạy bén, tận dụng sức ảnh hưởng của văn hóa đại chúng để quảng bá hình ảnh vùng đất quan họ.

Khơi dòng nghệ thuật truyền thống Việt Nam

Khơi dòng nghệ thuật truyền thống Việt Nam

Chứa đựng tinh hoa văn hóa, phản ánh sự tiếp nối trí tuệ, cảm xúc và bản sắc dân tộc qua nhiều thế hệ, nghệ thuật truyền thống giúp gắn kết với cội nguồn, nuôi dưỡng tâm hồn và phát triển tư duy sáng tạo. Bảo tồn, kế thừa, phát huy mạnh mẽ hơn nữa những giá trị của nghệ thuật truyền thống, góp phần thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển và khẳng định dấu ấn văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập đang là đòi hỏi cấp thiết hiện nay.

Nỗ lực quảng bá bánh mì Việt Nam ra thế giới

Nỗ lực quảng bá bánh mì Việt Nam ra thế giới

Hiệp hội Du lịch TP Hồ Chí Minh phối hợp cùng Tạp chí Du lịch TP Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học “Bánh mì Việt Nam - Giá trị ẩm thực thế giới, lan tỏa năm châu” để quảng bá, giới thiệu bánh mì Việt Nam đến với đông đảo du khách. Đây là một trong những hoạt động chính trong khuôn khổ Lễ hội Bánh mì Việt Nam lần 3 năm 2025.

Đặc sắc Bảo tàng Nghệ thuật kính màu đầu tiên ở Việt Nam

Đặc sắc Bảo tàng Nghệ thuật kính màu đầu tiên ở Việt Nam

Việc ra đời Bảo tàng Nghệ thuật kính màu đầu tiên tại Việt Nam vào giữa tháng 3 vừa qua đánh dấu một hoạt động văn hóa chuyên biệt, độc đáo trong đời sống văn hóa nước nhà. Chính thức khai trương tại Trại Da Vinci, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội, Bảo tàng mở ra một không gian sáng tạo trưng bày những tác phẩm kính màu từ khắp nơi trên thế giới.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

fb yt zl tw