LCĐT - Ba năm về trước, bà cũng có một mái ấm gia đình. Không phải là khá giả nhưng cũng đủ ăn, đủ tiêu, nhìn lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống thì cả cái xóm trại này cũng khối kẻ còn phải chạy dài. Thế rồi thân phận của con người run rủi. Run rủi như con cá rô đồng chui vào hom, lẩn quất dưới cánh bèo. Cơn bão hê-rô-in đã đẩy cái thân phận bé nhỏ đó ra cái gầm cầu này. Hoàn cảnh buộc bà chuyển nghề. Từ cái nghề làm ruộng, sang nghề nhặt rác. Hai số phận, hai mảnh đời ôm chân cầu. Những lúc nghĩ về con, mắt bà ngân ngấn nước.

Gia tài của bà là cái dát giường 1,2 m. Một cái chăn chiên, một bàn gỗ và một cái chum đựng nước. Thế đó. Cuộc đời như bất phương trình. Nhưng bà nén chịu đựng và nuôi lấy hạnh phúc. Cái hạnh phúc nhỏ nhoi thấy cháu mình càng ngày càng lớn. Còn đống rác to lù lù ở cái cầu này thì còn gạo, còn rau.
Lắm lúc bà rùng mình và lại nghĩ về quá khứ. Cái quá khứ tệ bạc đã cướp đi đứa con của bà. Cái quá khứ đau thương đã cướp đi căn nhà của bà.
Hiếu, thằng cháu bà rất vô tư. Nó sán lại bà khi bà gọi. Bà bảo:
- Thằng chó con của bà, đi đâu chơi thì đi, nhưng nghe thấy bà gọi là phải về nhà ngay.
Nó “dạ!” một tiếng và chạy đi chơi.
Thế rồi, những cơn mưa tầm tã. Năm nay bão to. Vẫn cái nón mê, trời tạnh là bà lại ra bãi rác. Cuộc sống của bà là đây? May thì được 40 nghìn đồng, rủi thì chẳng được đồng nào. Và như con tằm cuộn kén, bà về lại ôm cháu, giọng ru lại vang lên lạc vào không gian mưa.
Cây cầu vắt ngang dòng sông. Xa xa là bãi cát. Chiếc thuyền vẫn lặng lẽ trôi. Bữa cơm của hai bà cháu là cá khô với dưa. Sang thì có lạng thịt. Mấy bà béo làm nghề ba toa thương cảnh đìu hiu còm cõi, cứ đến chiều chạng vạng lại biếu bà ít thịt vụn. Cái đầu thừa đuôi thẹo toàn là da với xương đã là bữa tươi của bà. Đặt chiếc quang giành, bà quay lại xởi lởi:
- Có gánh nước các bà cứ ới tôi một câu là tôi đến để góp việc!
Thế đấy, bà không muốn lấy không của ai cái gì? Và cũng muốn đóng góp sức mình cho dù nho nhỏ vào cái khu phố đầu cầu này.
Cái lều tềnh toàng nằm dưới gầm cầu, trông xa như tổ chim. Lại gần như chiếc chõng tre. Chiếc chõng tre cứ đu đưa theo năm tháng. Và cái lều cứ tồn tại qua nắng mưa gió bão, dẻo dai như chính số phận của những con người ở trong đó.
Vào một ngày, trời trở gió. Gió bão lồng lộng thổi thốc lên từ dưới bờ sông. Ghê nhất là những trận bão đầu mùa. Những đợt gió đùa giỡn, lật bật chạy xéo sang bờ bên kia. Cuồng phong, mặt nước đỏ vàng, cầu vồng bắc ngang bờ sông cắm mũi sang bên bờ tre. Cơn cuồng phong đấm vào mố cầu, thấy đau, nó chuyển hướng đạp mạnh vào lều. Gió thốc lên xoáy tít đánh vào mạng sườn của căn lều. Gió muốn tung hê cả cái lều vứt hẳn xuống sông. Nằm trên chiếu, Hiếu bị gió đấm ngược từ dưới, nó bấu bíu lấy thanh xà gồ. Thanh gỗ dày hai mươi phân với cái đinh mười đã ổn định tinh thần nó rằng: Đừng sợ, hỡi cậu bé, có ta ở bên cạnh là yên tâm. Nói là vậy, bám là vậy, nhưng mỗi đợt như vậy qua đi, mặt Hiếu tái mét, tóc tai xổ tung, bơ phờ như người vừa từ trên thuyền gặp bão ngoài khơi vào.
Và sau những trận mưa xối xả. Sách ướt. Áo quần vẫn còn mùi ố vàng, màu của bụi bám đầy thành giường. Hiếu gượng gạo sắp lại sách bút. Lòng nặng trĩu nỗi buồn về quyển sách mới mua bị ướt đến hai phần. Hiếu lại ngồi đốt lại lò than, giơ tay ngang mặt để hơ, để ngày mai kịp có sách đọc .
Nghèo là vậy. Bần hàn là thế. Và cứ từ tờ mờ sáng, bà xách cái túi cói ra đi. Thằng bé co chân đợi bà, thỉnh thoảng nó cúi xuống gãi gãi bàn chân cho đỡ ngứa. Trước lúc đó, khi thì bà gửi thằng Hiếu cho hàng xóm cho có chúng bạn, khi thì bà đưa nó đi cùng cho đỡ lo. Đến đoạn bằng, thằng bé tuột khỏi tay bà lăng xăng chạy, lăng xăng những câu chào hỏi không đầu không cuối. Cứ thế nó chào, nó ngoắc vào tay và kéo bà sang bên kia đường. Những lúc ấy, thấy bà cười. Tiếng cười rạng rỡ hẳn lên.
Bãi rác sau những trận mưa rào, hôm nay nhộn nhịp. Chiếc máy gạt màu xanh cỡ nhỏ đưa đi đưa lại thành đường. Chiếc máy gạt quay ngang, quay dọc chà sát lên đống “tạp pí lù”, thôi thì đủ loại. Hôm nay khác thường là không phải bới, cứ thế đoàn người chạy theo, mà gắp mà phủi phủi bỏ vào cái túi to tướng đeo đằng hông.
Đây rồi, ống bơ, đoạn sắt. Đây rồi cán thuổng lưỡi cuốc… tất tật cũng được khôi khối. Thật là một lần có máy bằng cả tuần đào bới. Chiều về, bà phân loại. Những ni lông, sắt vụn, ve chai, thủy tinh. Hàng được đem đến những ông chủ bên kia hàng phượng mà cân mà đong đếm. Ít thì bán quạ, nhiều thì bán cân.
Hiếu lớn dần theo năm tháng. Nó cũng hiểu nó được sinh ra từ đâu? Ai hỏi đến bố mẹ, nó nói toạc móng heo, chẳng cần đậy điệm:
- Bố tớ mất khi tớ 2 tuổi. Còn mẹ tớ mất cách đây 7 năm.
Mọi người bảo bố mẹ nó mắc bệnh “si đa”, bệnh “ết”. Nhưng nó kể cho mọi người chỉ nói đến câu: Bố mẹ tớ mắc căn bệnh của thế kỷ...
Hiếu theo học với chúng bạn và cùng vui chơi với chúng bạn. Tan tầm nó cùng bà đi nhặt ve chai. Dần dà, nó cũng tập việc đi thu mua sắt vụn. Tuổi thơ của nó gắn với mố cầu, với mưa gió bão bùng, đã tôi luyện nó có tinh thần sắt.
Nước da Hiếu bóng loáng. Con đò, dòng sông đã nuôi nó, đã rưới lên cái lưng nó những hạt nắng màu phù sa. Nhìn cái bụng của nó lép kẹp khi cởi trần thi thố hò reo bơi sải cùng lũ trẻ bãi soi mà tội tội thế nào ấy. Những lúc ấy, bà đi làm về bỏm bẻm nhai trầu, nhìn cháu, bà rơm rớm nước mắt.
Hiếu học sáng dạ, năm nay lên lớp 6. Những giấy khen của cậu đã dán kín phía dưới mố cầu. Những tấm giấy khen có dấu đỏ, có chữ ký của hiệu trưởng được lưu giữ, bao bọc bởi tấm gỗ lùa làm giá đỡ bên trên.
Thời gian cũng như đếm được sự gian lao vất vả. Cóp nhặt được đồng tiền bà mua cho nó cái cặp có dây đeo. Những buổi đi học về nó đã giúp bà nấu cơm, đóng than. Mùi khói than bay là là bên thành cầu...
Chiều chạng vạng. Ráng vàng hắt xuống lòng sông. Có bóng người dật dờ từ bãi cát đi lên. Bước đi lảo đảo như say rượu. Bóng người ngả nghiêng theo bóng rặng tre. Hiếu đang kều than, nhưng mắt vẫn dõi theo. Cái bóng lảng vảng leo dần về phía chân cầu, sát lều nhà mình. Hiếu đứng dậy nhìn theo. Thoắt cái, nó đã bám vào tấm ván và đu lên sàn lán. Hắn vuốt lên vuốt xuống cái cổ cao. Mắt lờ đờ, cổ tay phẩy về phía Hiếu:
- Này thằng kia! Muốn sống thì đưa tiền đây…? Bằng không tao sẽ phá tan cái lều này!
Từ nãy đến giờ, nghe thấy nhưng cứ như làm ngơ. Hiếu dụi que than:
- Tôi không có tiền? Cùng cực mới ra đây để ở.
- Tao nói thật... Có cho không thì bảo?
Nói rồi, nó trợn mắt nhìn trân trân vào cái hộp sắt để bên gờ mố cầu, phía trong cái màn vắt dở:
- Thế cái gì kia?
Thế rồi nó trợn mắt. Màu trắng nhiều hơn màu đen, mím môi, vừa đu, vừa với lấy cho bằng được. Chết rồi, thế là toi rồi? Công sức của bà cả tháng trời nằm cả ở đây?
Hiếu đứng dậy phủi tay, một tay cầm que cời gõ gõ xuống phản, tay kia cầm lấy cổ áo:
- Mày muốn sống thì bảo? Mày để nguyên cái hộp lại? Nếu không tao cho mày xuống đáy sông để mà thám hiểm nông sâu, nghe không?
Tức khí, nó cầm con dao sáng loáng rạch vào tay. Bàn tay giơ lên ngang mặt doạ:
- Đời tao cũng chỉ là cái màu này. Cái màu “tiết canh si đa” mày có ăn không?
Nói rồi, nó xô tới định quệt cái màu huyết đó vào mặt. Hiếu né sang một bên, miệng kêu cứu, một tay đu người vào tay kia của nó, rồi cả hai đều lăn tòm xuống sông.
Cái hộp sắt cũng vung theo, tất tật đổ xuống mặt nước. Đồng tiền xổ, bung xòe tãi đều trên mặt nước như người ta quải vàng mã…
Sáng sớm hôm sau, Hiếu thấy mình mẩy đau ê ẩm. Nhìn quanh, thấy mình đang nằm tại bệnh viện. Bà nó ngồi ở góc giường cứ thế mà quệt ngang giọt nước mắt.
- Cũng may là cháu tôi còn sống. Phúc đức bảy mươi đời.
Hiếu nhìn bà và oà lên khóc. Nó nghĩ đến cái hộp tiền và nói trong mếu máo:
- Bà ơi? Bao công của bà đều mất cả rồi?
Bà gỡ gỡ tay ra và ôm chặt vào lòng. Những bàn tay cơ cực, bần hàn ôm chầm vào nhau:
- Còn người còn của, mất người là mất tất.
Nói vậy, nhưng nước mắt bà vẫn tuôn chảy. Chẳng hiểu là giọt nước mắt buồn hay là giọt nước mắt vui.
Sau sự kiện đó, câu chuyện đến “tai” Ủy ban nhân dân phường. Bẵng đi một tuần, bà được cấp một gian nhà tập thể sống chung với cánh công nhân khai thác đá. Năm tháng bần hàn đã nuôi Hiếu thi đỗ tốt nghiệp. Sau đó, nó cũng xin làm công nhân. Những đêm trăng thanh gió mát, Hiếu thường đứng trên cầu, đếm từng chuyến xe qua, đếm cả biển số chẵn, hay lẻ. Có lần nó vắt mình qua thành, ngửa đầu đón ngọn gió ngược dòng, cúi xuống thả từng chiếc lá xanh. Chiếc lá xoay xoay, lả tả rơi xuống lòng sông cùng với dòng âm thanh rủ rỉ:
- Tuổi thơ cơ cực của ta ở đây? Tạm biệt gầm cầu mến yêu của ta. Một gầm cầu cũng đủ ban thờ, sách, bút. Một gầm cầu đầy rẫy những kỷ niệm cơ cực.