Sức sống nghề phở

Ngày 9/8, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã công bố danh mục văn hóa phi vật thể quốc gia thuộc loại hình “Tri thức dân gian đối với phở Hà Nội, Nam Định và mỳ Quảng”. Đây là dấu mốc mới trong hành trình phát triển của nghề phở ở một trong những “cái nôi” của phở Việt: Nam Định.

Nghệ nhân làng phở Vân Cù trình diễn nghệ thuật nấu phở tại làng trong khuôn khổ “Festival Phở” năm 2024 tổ chức tại tỉnh Nam Định.
Nghệ nhân làng phở Vân Cù trình diễn nghệ thuật nấu phở tại làng trong khuôn khổ “Festival Phở” năm 2024 tổ chức tại tỉnh Nam Định.

Chỉ “thăng”, không “trầm”

Nằm ở trung tâm vùng nam Đồng bằng sông Hồng, tỉnh Nam Định có nhiều làng nghề truyền thống. Nhiều làng nghề trong số này cho đến nay vẫn đang trường tồn, phát triển nhưng cũng có nhiều làng nghề gặp khó khăn, thăng trầm. Trong đó, có một làng nghề mà sự phát triển của nghề từ khi xuất hiện đến nay chỉ thấy “thăng”, chưa thấy “trầm”, đó chính làng nghề phở Vân Cù (xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực), và giờ đây là ở nhiều làng xã khác trong huyện.

Theo các bậc cao niên làng Vân Cù, từ những năm đầu thế kỷ 20 ở làng đã có những người đầu tiên lên TP Nam Định (cách khoảng 15km) nấu, bán phở cho những ông chủ người Pháp và thợ làm việc tại Nhà máy Dệt Nam Định. Họ sau đó còn vượt đường, lên Hà Nội, ra Hải Phòng để hành nghề chỉ bằng một đôi quang gánh. Ngay từ những năm 30, 40 của thế kỷ trước người Hà Nội đã biết và được thưởng thức món phở mang thương hiệu “Phở Cồ” của những người mang họ Cồ đến từ Nam Định.

Cho đến nay, người làng Vân Cù vẫn nhớ tên, vinh danh những người làng đầu tiên hành nghề Phở gánh, từ những năm 1900, đó là các cụ Phó Huyến, cụ Phó Tắc, cụ Lý Thử… Tiếp nối cụ Huyến, cụ Tắc, cụ Thử là thế hệ các ông Cồ Bá Khâm, Cồ Như Thấn, Cồ Hữu Tặng, Cồ Hữu Vặng, Cụ Cồ Như Hỷ… Từ năm 1920 trở đi, ở Hà Nội có 2 người họ Cồ làng Vân Cù nổi danh với nghề Phở khắp chốn kinh kỳ, đó là đó các ông Cồ Như Thấn, Cồ Hữu Vặng.

Trong đó, vào những năm 1930, ông Cồ Hữu Vặng đã mở các lò làm bánh phở ở Hà Nội, tạo công ăn, việc làm cho nhiều anh em, họ hàng, xóm giềng từ Vân Cù (Nam Định) lên theo. Tại đây, ông Cồ Hữu Vặng sinh được 5 người con, đều đặt tên con theo tên những con phố ông từng gắn bó, mưu sinh với nghề Phở, là Cồ Thị Nội, Cồ Thị Khánh, Cồ Thị Hành, Cồ Thị Nón, Cồ Thị Hin.

Tuy nhiên, cho đến những thập kỷ sau đó, nghề phở vẫn chỉ là một nghề phụ của người Vân Cù, với một số ít người tham gia và phải “ly hương” để mưu sinh; chưa đủ sức “dẫn dắt” đời sống kinh tế - xã hội của làng, cả ở mặt tạo việc làm lẫn thu nhập. Ở những thập niên này, số đông người làng vẫn sống dựa chủ yếu vào nghề nông.

Điều này rất dễ hiểu, vì suốt những thập niên này, đất nước khi có chiến tranh, vận hành theo cơ chế bao cấp, đời sống của số đông người dân còn khó khăn, khó có thể ngày ngày đàng hoàng vào hàng phở “gọi một tô”. Nghề phở ở Vân Cù do vậy chưa có điều kiện để phát triển.

Khi kinh tế - xã hội phát triển thì đời sống của phở cũng thay đổi. Theo ông Vũ Ngọc Vượng, thế hệ thứ 4 của người làng Vân Cù đang hành nghề phở ở Hà Nội, hơn 30 năm trước, ở thời điểm kinh tế đất nước bắt đầu khởi sắc, nhiều người trẻ ở Vân Cù đã lựa chọn theo tiền nhân hành nghề phở. Họ lên TP Nam Định, tới nhiều đô thị lớn khác, cả các thị trấn ở khắp mọi miền để thuê địa điểm, mở cửa hàng phở hoặc sản xuất bánh phở. Không chỉ có thu nhập tốt từ công việc này, họ còn tạo việc làm, thu nhập cho nhiều người khác. Có thu nhập, có tích lũy, nhiều người sau đó đã mua được nhà ở thành phố, có khi mua lại được chính căn nhà họ đã thuê trước đó. Đến những năm 2000, từ làng Vân Cù nghề phở dần “lan ra” các làng khác trong xã Đồng Sơn, rồi lan ra các xã lân cận.

Khâu tráng bánh phở.
Khâu tráng bánh phở.

Tuân thủ “phép nghề”

Đến nay, học theo người Vân Cù, người dân các làng Tây Lạc, Bẩy Trại, Sa Lung, Rương Độ (cùng xã Đồng Sơn) và nhiều người ở các thôn làng của xã Nam Thái, Nam Tiến, Bình Minh… ở cùng huyện cũng lấy nghề này làm kế mưu sinh.

Theo Câu lạc bộ Phở Vân Cù, đến nay ở làng có đến 70% số lao động đang làm nghề phở. Họ đang vận hành hơn 100 quán phở, hơn 20 cơ sở sản xuất bánh phở, hàng ngày sản xuất, bán ra thị trường khoảng 30 tấn bánh phở. 80% lượng bánh phở tiêu thụ ở thị trường Hà Nội do người Vân Cù sản xuất.

Việc người dân ở nhiều làng xã khác gần làng Vân Cù học và theo nghề phở, có thu nhập tốt từ nghề này là minh chứng sinh động nhất về sức sống, sự phát triển của nghề này ở Nam Định. Hơn thế, họ đã góp phần đưa món phở từ một món ăn xa xỉ trở thành một món ăn bình dân, phổ quát, ẩn chứa trong đó những câu chuyện về lịch sử, văn hóa.

Không chỉ ở trong nước, Phở Việt, trong đó có Phở Nam Định giờ đây còn được biết đến rộng rãi trên thế giới, được nhiều người đến từ các quốc gia khác, nền văn hóa khác, thói quen ăn uống khác yêu thích.

Có dịp về các thôn, làng ở xã Đồng Sơn và các xã lân cận sẽ thấy diện mạo làng quê ở đây đã thay đổi hoàn toàn, nhà cửa toàn cao tầng, biệt thự, rất nhiều chủ nhân của những ngôi nhà này là chủ những hàng “Phở Vân Cù”, “Phở Nam Định” trên khắp mọi miền đất nước.

Vậy, việc làm ra một bát phở Vân Cù nói riêng, phở Nam Định nói chung có gì khác biệt để giờ đây được xem là tri thức dân gian, là di sản văn hóa cần được bảo vệ, phát huy?

Theo các ông Cồ Việt Hùng, Cồ Như Chêm, Cồ Như Cải (những nghệ nhân nấu phở cao niên ở Vân Cù) thì từ thuở khởi nghiệp các tiền nhân của làng đã có “phép nghề”, được các thế hệ kế tiếp giữ gìn, tuân thủ. Đó là cẩn trọng trong từng công đoạn, không được cẩu thả, bớt xén.

Theo đó, phải lựa được gạo ngon để xay, nước dùng phải sạch, quá trình tráng bánh, ngâm rửa, hầm xương phải đúng, đủ thời gian; việc sử dụng, kết hợp các loại gia vị (hoa hồi, thảo quả, hành khô, vỏ quế, gừng già, nước mắm, muối thô…) phải được tính toán tỉ mỉ, hợp lý; không được dùng nguyên liệu thừa, lưu cữu. Có như vậy mới đảm bảo các yếu tố của một bát phở ngon: bánh phở mềm, dai; nước dùng ngọt, trong, thanh.

“Tuân thủ phép nghề này, chúng tôi không tra mỳ chính nước phở vẫn ngọt” - ông Chêm tự hào trong khi ông Cải quả quyết: “Muốn cải tiến gì thì cải, để có bát phở ngon, chuẩn vị Vân Cù vẫn phải giữ phép nghề, tuân thủ các công đoạn truyền thống”.

Ngay sau khi “Tri thức dân gian Phở Nam Định” được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, thông tin từ Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Nam Định cho biết, theo chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Trong đó, tăng cường các hoạt động quảng bá, giới thiệu về di sản; thực hiện việc nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu qua di sản; tổ chức các hoạt động trao truyền di sản tại cộng đồng chủ thể; tổ chức các hoạt động giáo dục di sản ngoài cộng đồng chủ thể; nghiên cứu quy hoạch không gian văn hóa thưởng thức phở tại Nam Định...

Theo daidoanket.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Hoàng thành Thăng Long là di tích khảo cổ học có quy mô rất rộng lớn, với nhiều tầng văn hoá phức tạp. Mỗi lớp đất, mỗi dấu tích kiến trúc, mỗi di vật khảo cổ học… chứa đựng những bí ẩn của lịch sử Hoàng cung Thăng Long - nơi hội tụ, kế thừa và phát triển của văn hóa kiến trúc cung đình phương Đông, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Sau 3 ngày diễn ra (từ 31/10 đến 2/11), Lễ hội Ẩm thực chay 2025 đã thu hút hơn 100 nghìn lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và thưởng thức các hoạt động văn hóa, ẩm thực, cộng đồng. Đặc biệt, Lễ hội đã xác lập kỷ lục Việt Nam với 200 món chay từ sen.

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố được coi là “trái tim” của thiết chế văn hóa cơ sở. Đối với tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống như Lào Cai, nhà văn hóa không chỉ là nơi hội họp của thôn, mà còn là địa điểm để người dân tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Chiều muộn ở xã Bảo Ái, cô Lưu Khánh Linh vẫn ngồi giữa những chồng sách cao và tập bài viết của học sinh. Trên bàn làm việc, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Yến mở trang, bên cạnh là bản thảo bài phê bình văn học cô chuẩn bị gửi cho tạp chí. Hình ảnh quen thuộc ấy đã trở thành biểu tượng cho một hành trình đặc biệt: từ trường học ra diễn đàn, từ người truyền đạt tri thức đến nhà phê bình văn học. Quan trọng hơn, cô là người gieo mầm yêu văn chương cho thế hệ trẻ vùng nông thôn.

Đánh thức ký ức của núi rừng

Đánh thức ký ức của núi rừng

Từ gỗ và thổ cẩm, ông Trần Văn Khi và con gái Trần Lan Anh đã tạo nên những tác phẩm điêu khắc mang đậm bản sắc vùng cao Sa Pa. Mỗi đường khắc, mỗi mảnh thổ cẩm không chỉ là sự sáng tạo, mà còn là cách họ kể lại câu chuyện về con người và văn hóa nơi đây.

Linh thiêng Lễ hội Đền Đôi Cô Cam Đường

Linh thiêng Lễ hội Đền Đôi Cô Cam Đường

Sáng 02/11 (tức ngày 13/9 âm lịch), UBND phường Cam Đường, tỉnh Lào Cai tổ chức Lễ hội Đền Đôi Cô năm 2025, sự kiện văn hóa, tâm linh có ý nghĩa sâu sắc, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham dự.

Theo bước sương sớm về thôn Lao Chải

Theo bước sương sớm về thôn Lao Chải

Tôi theo con đường đất đỏ ngoằn ngoèo dẫn lên xã Y Tý (tỉnh Lào Cai), nơi thôn Lao Chải ẩn mình trong mây. Buổi sớm ấy, hơi lạnh len qua từng lớp áo, sương mù phủ kín cả thung lũng. Những mái nhà trình tường phủ đầy rêu phong hiện ra lặng lẽ, mộc mạc mà kiêu hãnh. Tôi dừng lại thật lâu, lắng nghe hơi thở của núi rừng và tiếng nói cười của người Hà Nhì đang khởi đầu một ngày mới.

"Đêm Bảo tàng" - Điểm hẹn của những người yêu nghệ thuật

"Đêm Bảo tàng" - Điểm hẹn của những người yêu nghệ thuật

Ngày 31/10, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam chính thức ra mắt sản phẩm du lịch văn hóa "Đêm Bảo tàng" tới đông đảo công chúng. Đây là lần đầu tiên bảo tàng mở cửa đón khách trải nghiệm vào ban đêm, hứa hẹn mang đến một không gian khác biệt, nơi hội họa, điêu khắc, âm nhạc... cùng giao thoa, hòa nhịp vào đời sống nghệ thuật đương đại.

Sắc màu trên cao nguyên

Sắc màu trên cao nguyên

Có một thứ sắc màu đã dệt nên bức tranh văn hóa đầy sức sống, làm nên bản sắc riêng có ở vùng đất cao nguyên. Đó là sắc màu của “nhịp váy đung đưa”, của “vang tiếng khèn chàng trai xuống chợ”, của chén rượu ngô “nồng say”, của “mận vàng trái chín”...

fb yt zl tw