Luật số 73/2025/QH15 Luật Nhà giáo 2025 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2026) được Quốc hội thông qua là cột mốc quan trọng khẳng định chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Luật đã nói rất trúng về vị thế nhà giáo và chính sách đãi ngộ nhà giáo. Nhưng để đi từ chủ trương tới bảng lương, phụ cấp và cách chi trả minh bạch thì phải trông vào Nghị định và Thông tư hướng dẫn. Nếu văn bản dưới luật thiết kế không tốt, chính sách rất dễ rơi vào 2 thái cực: hoặc "hô khẩu hiệu" vì thiếu nguồn lực, hoặc "vung tay quá trán" rồi kéo theo tăng học phí ở nơi tự chủ, tạo hiệu ứng xã hội ngược.
Lúc này, tăng thế nào để không đẩy rủi ro sang học phí, không làm ngân sách địa phương và Trung ương "đuối" mới là bài toán khi hệ thống có gần 1,6 triệu nhà giáo, chỉ cần điều chỉnh nhỏ theo tỉ lệ phần trăm cũng thành con số ngân sách rất lớn. Vì vậy, Nghị định nên bám đúng tinh thần "Luật khung": quy định cấu trúc chính sách, nguyên tắc tính, nguồn chi và lộ trình; còn Thông tư đi vào tiêu chí, đối tượng, điều kiện hưởng theo hướng minh bạch, đo được, kiểm tra được. Điều quan trọng nhất là phải chuyển được triết lý đãi ngộ: không thể để lương nhà giáo mãi bị "neo" chủ yếu vào văn bằng, vì cách ấy làm méo tín hiệu công bằng. Lương theo vị trí việc làm và giá trị công việc phải là nền tảng.
Như vậy, Nghị định nên thiết kế chính sách theo ba lớp rõ ràng: lớp cơ sở là lương theo vị trí và hạng chức danh gắn với chuẩn nghề nghiệp; lớp thứ hai là phụ cấp theo tính chất nghề và điều kiện lao động; lớp thứ ba là phần thưởng theo năng lực/đóng góp, song thiết kế phải ngừa chủ quan, cảm tính, thiên vị bằng bộ tiêu chí đo được, quy trình đánh giá minh bạch, quyền khiếu nại...
Về mặt ngân sách, nếu chỉ "ra mức hưởng" rồi mặc địa phương hoặc cơ sở đào tạo tự chủ để tự xoay, chính sách sẽ sớm vấp: nơi giàu làm được, nơi khó càng khó. Vì vậy, lộ trình 2026-2030 cần được thiết kế ngay trong Nghị định như một cam kết tài khóa: năm đầu ưu tiên nhóm thực sự cấp bách (mầm non, vùng đặc biệt khó khăn), các năm sau mở rộng theo năng lực cân đối trung hạn; đi kèm là công thức phân chia trách nhiệm chi giữa trung ương - địa phương, các đơn vị, và cơ chế "đặt hàng/giao nhiệm vụ" tính đủ chi phí nhân công để tránh tự chủ biến thành cái cớ tăng học phí.
Thông tư cần chuẩn hóa tiêu chí hưởng phụ cấp theo dữ liệu: thời lượng dạy thực tế, loại hình lớp, địa bàn, mức độ khó, tình trạng thiếu giáo viên; đồng thời số hóa quy trình chi trả để giảm thất thoát. Cũng cần một cơ chế rà soát hằng năm: đánh giá tác động ngân sách, tác động thị trường lao động giáo viên, và tác động tới học phí ở khối tự chủ.
Ủng hộ nâng đãi ngộ nhà giáo là đúng, nhưng ủng hộ hợp lý là ủng hộ một thiết kế vừa đúng luật, vừa có điểm rơi ngân sách, vừa hạn chế tối đa rủi ro đẩy chi phí sang người học. Làm được như vậy, Nghị định và Thông tư sẽ trở thành đòn bẩy thật: giữ người giỏi ở lại trường, kéo người phù hợp vào nghề và giữ được niềm tin xã hội rằng cải cách là để nâng chất lượng chứ không phải để đổi cách thu.