Những tâm huyết của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền trong "Ả Đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật"

“Ả Đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” là công trình nghiên cứu tâm huyết cả cuộc đời của nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Bùi Trọng Hiền. Dành nhiều năm trời đi lại, ghi chép, thu âm… từ các nghệ nhân cao niên, tâm nguyện lớn nhất của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền là có thể cho ra một bộ “sách giáo khoa” về ca trù, các thể cách, lối hát, âm luật… thật chuẩn mực, để những người trong nghề lấy đó làm quy chuẩn.

1.jpg
“Ả Đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”.

Và “Ả Đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” chính là kết quả từ rất nhiều năm lăn lộn cùng ca trù như vậy của nhà nghiên cứu. Sách do Omega Plus ấn hành, với 6 phần nội dung và 1 phần phụ lục gồm 14 trang ảnh tư liệu đào kép thế kỷ 20.

“Ả Đào - Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” không chỉ ngược dòng lịch sử để xem cha ông ta đã biết cách thương mại hóa một nghệ thuật âm nhạc đỉnh cao như thế nào, mà còn cung cấp những thông tin cụ thể về hệ âm luật của nghệ thuật ca trù.

Sách gồm 7 phần nội dung:

Phần 1: Không gian văn hóa - chức năng xã hội và những hình thức biểu hiện của nghệ thuật Ả đào: Đem đến cái nhìn toàn diện hơn về thể loại nhạc hơn nghìn năm tuổi này.

Phần 2: Khổ phách - khổ đàn: Làm sáng tỏ những khuôn thước trong bài bản bấy lâu nay vẫn được xem như bí truyền của giới nghề. Mọi vấn đề đưa ra đều được minh họa bằng những ví dụ đoạn nhạc ký âm chi tiết.

Phần 3: Cung điệu nhạc Ả đào: Với phương pháp tiếp cận mới, hệ thống cung điệu nhạc Ả đào đã được định nghĩa theo cách nhìn khoa học âm nhạc. Từ đó xác định có bao nhiêu loại cung điệu trong thể loại, cấu tạo các cung điệu ứng với hệ thống bài bản Ả đào như thế nào. Đây là một trong những phát hiện mới mẻ, quan trọng của công trình.

Phần 4: Hình thức - cấu trúc bài bản: Thông qua phần này, đào kép thế hệ mới hoàn toàn có thể tiếp cận, nhận diện bài bản một cách dễ dàng và khoa học cũng như hiểu thêm về vai trò, chức năng của chúng trong nhạc Ả đào.

Phần 5: Nghệ thuật trống chầu: Căn cứ vào lời giảng của nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ, kết hợp với tài liệu dạy trống chầu ấn hành từ đầu thế kỷ 20 cùng các căn cứ trong tư liệu, đã tổng kết toàn diện và từng phần chi tiết nguyên tắc chơi trống chầu của quan viên Ả đào.

Phần 6: Nhà hát Cô đầu - Góc nhìn lịch sử văn hóa: Đưa ra một cách nhìn khác về nhà hát Cô đầu, một cách nhìn nhân văn hơn với thế hệ những nghệ sĩ Ả đào - họ đã trở thành một phần của lịch sử văn hóa dân tộc.

Phần7: Phụ lục ảnh

Ngày 1/10/2009, UNESCO đã chính thức ghi danh nghệ thuật Ca trù của Việt Nam vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Trước giờ phút đó, trong đời sống âm nhạc, hẳn ít ai biết được rằng trong kho tàng âm nhạc cổ truyền dân tộc có sự tồn tại của một loại hình nghệ thuật mang tên ca trù. Cũng không mấy ai biết rằng nó vốn có tên Ả đào, Cô đầu, Hát Ca công, Hát nhà tơ... Còn trong cung vua phủ chúa danh giá thời xưa, nó được gọi là Hát cửa quyền.

Ca trù hồi đầu thế kỷ 20.
Ca trù hồi đầu thế kỷ 20.

Ngược dòng lịch sử trở về nửa đầu thế kỷ 20, Ả đào là một thể loại cổ nhạc chuyên nghiệp ở tầng bậc kỹ thuật cao với hệ âm luật phức tạp nhất, bao phủ khắp các vùng từ miền bắc trở vào cho đến Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Sang đến nửa sau của thế kỷ 20, khi lịch sử sang trang, cuộc chơi nghệ thuật nghìn năm tuổi này đã chấm dứt. Khắp các vùng miền, giáo phường Ả đào giải tán, nhà hát Cô đầu chốn thị thành buộc phải đóng cửa, đào kép mai danh ẩn tích, khuất dần theo bóng xế chiều. Và, Ả đào biến mất hoàn toàn khỏi đời sống xã hội.

Nhiều năm sau, khi ca trù được công nhận là Di sản văn hóa thế giới, khi nhìn lại, người ta mới nhận thấy di sản quý giá đó đã mai một không ít. Các nghệ nhân người thì lui về mai danh ẩn tích, người bỏ nghề, người đã về với ông bà, còn lại hầu hết thì đều đã tuổi già sức yếu, gần đất xa trời. Di sản ca trù cứ thế dần theo các cụ về với tiên tổ.

Trong giới những nghệ nhân cao tuổi cuối cùng của loại hình này, vẫn thấy lan truyền câu chuyện than phiền, rằng đào kép trẻ theo ca trù hiện nay phần lớn đều “đàn hát không có phách, không đúng khuôn khổ”. Thậm chí có những đào nương tên tuổi, nhưng vẫn gõ phách sai. Điều này dẫn đến một thực tế là nếu các nghệ nhân nhà nghề nói đúng thì hiện trạng của ca trù thế hệ tiếp nối quả là đáng báo động. Có nghĩa, giới trẻ kế thừa đã và đang đàn hát sai hoàn toàn so với chuẩn mực của ca trù trong cổ truyền. Vậy thế nào là chuẩn mực cổ điển của ca trù? Liệu có cách nào giải quyết vấn đề này?

Điều đó đã thôi thúc nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền tìm kiếm, sưu tầm và bỏ công viết lại, ghi lại tất cả những kiến thức về âm luật, khổ đàn, khổ phách… trong kho tàng ca trù Việt Nam cả thế kỷ qua. Trong suốt nhiều năm, anh đã đi tìm, sưu tầm, xin hoặc mượn những băng đĩa về ca trù của thế kỷ 20, từ những kiến thức phách của nghệ nhân Quách Thị Hồ, Chu Thị Năm, rồi Đào Mộng Hoàn ở Khâm Thiên từ những năm 20-30…, cho đến các nghệ nhân như các cụ Nguyễn Thị Chúc, Nguyễn Phú Đẹ… Những năm đó, anh tỉ mẩn nghe, lưu lại và số hóa từng chút một những tư liệu, băng cát xét từ những năm 1959, 1976, 1979 của gia đình cụ Đinh Khắc Ban, của nhà nghiên cứu Đặng Hoành Loan. Khi đó, cứ được nửa trang A4, anh lại mang tất cả những câu hỏi, thắc mắc chạy về Hải Dương gặp cụ nghệ nhân Nguyễn Phú Đẹ để hỏi. Cứ như thế, anh đã gom trong tay cả một kho tàng quý giá của cha ông về ca trù.

Năm 2014, nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền phối hợp Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam ghi lại tất cả những gì giải mã được và chuyển sang hệ thống âm luật bài bản, có thể được coi là hệ thống “sách giáo khoa” của ca trù. Nhóm ả đào Phú Thị, với thành viên gồm các ca nương Thùy Linh, Kim Ngọc, kép đàn Đình Hoằng, trống chầu Minh Vẽ, vốn là những nhà nghiên cứu, giảng viên âm nhạc trẻ, thậm chí là dân tay ngang (họa sĩ) yêu mến bộ môn nghệ thuật truyền thống này được lựa chọn để Bùi Trọng Hiền thực hiện cách truyền dạy bài bản qua hệ thống âm luật hoàn chỉnh.

Năm 2017, lần đầu tiên nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền “trình làng” hát cửa đình, một loại hình ca trù tưởng chừng đã thất truyền, cùng với hệ thống âm luật chuẩn.

“Ả Đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật” chính là kết quả của quá trình đó, với các nghiên cứu đi sâu vào các khía cạnh lịch sử, không gian văn hóa và hệ âm luật của chính loại hình nghệ thuật cổ truyền này.

Nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền nguyên là giảng viên dạy các môn Nhạc lý cơ bản và âm nhạc dân tộc cổ truyền Việt Nam ở Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam.

Từ năm 1996 đến nay, ông chuyển công tác về Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.

Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền là người có nhiều cống hiến cho việc phục dựng và nghiên cứu chuyên sâu âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Trong hành trình nghiên cứu và tìm tòi khám phá những ngóc ngách bí ẩn của lịch sử âm nhạc dân tộc, ông đã có những đóng góp đáng kể, đặc biệt là đối với Ả đào và Cồng chiêng Tây Nguyên - cả hai đều được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Ngoài “Ả Đào: Một khảo cứu về lịch sử và hệ âm luật”, tác giả Bùi Trọng Hiền còn từng xuất bản cuốn sách chuyên khảo “Âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên”.

Theo Báo Nhân Dân

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ bảo tồn nét văn hóa truyền thống của dân tộc

Phường Nghĩa Lộ có 62% là người dân tộc thiểu số, trong đó đồng bào Thái chiếm 45%. Nơi được mệnh danh là cội nguồn của người Thái đen, từ lâu đã trở thành điểm sáng trong công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trong hành trình đổi mới và hội nhập hôm nay, phường Nghĩa Lộ vẫn giữ được hồn cốt văn hóa đặc trưng qua từng điệu xòe, nếp nhà sàn, khung cửi, tiếng khèn, câu hát, cùng lối sống chan hòa, mến khách.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Khẩn trương khắc phục tường Hoàng thành Huế

Sau khi một đoạn tường phía Bắc Hoàng thành Huế sụp đổ do mưa lớn kéo dài, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch yêu cầu UBND thành phố Huế kiểm tra, đánh giá hiện trạng, rà soát toàn bộ hệ thống tường thành và các di tích liên quan, đồng thời triển khai biện pháp bảo đảm an toàn cho di tích và người dân.

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Phát huy giá trị di tích Đền Đôi Cô Cam Đường

Nằm giữa vùng đất Cam Đường giàu truyền thống, di tích lịch sử văn hóa Đền Đôi Cô (tổ 11 Bình Minh, phường Cam Đường) từ lâu đã trở thành địa chỉ tâm linh quen thuộc của người dân địa phương và du khách thập phương.

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Đưa nhạc cụ truyền thống lên môi trường số

Không chỉ mê nhạc Âu - Mỹ, nhiều bạn trẻ Việt đang tự học đàn tranh, đàn tỳ bà qua video online và cover nhạc US-UK bằng chất liệu dân gian. Mạng xã hội trở thành “sân khấu mở”, nơi âm nhạc truyền thống được làm mới, sáng tạo nhưng cũng đặt ra câu hỏi: Làm sao giữ đúng bản sắc khi cập nhật xu hướng?

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mạch nguồn văn hóa dân tộc Dao đỏ ở Ù Sóc

Mỗi nét chữ, mỗi trang giấy không chỉ là tri thức mà còn là hơi thở của lịch sử, là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu của cộng đồng dân tộc Dao đỏ ở thôn Ù Sóc, xã Bảo Hà, tỉnh Lào Cai. 

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Giữ điệu dân ca Thu Lao

Trong các địa phương trên địa bàn tỉnh, người Thu Lao sinh sống chủ yếu ở khu vực thượng nguồn sông Chảy, thuộc huyện Mường Khương, Si Ma Cai cũ. Người Thu Lao có vốn dân ca phong phú thể hiện tâm tư, tình cảm, phản ánh đời sống sinh hoạt hằng ngày. Mặc dù giới trẻ người Thu Lao ít mặn mà với dân ca, nhưng ở bản làng vùng cao vẫn còn những người ngày đêm lặng lẽ gìn giữ dòng chảy truyền thống của dân tộc.

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Bản Hồ khai thác tiềm năng để phát triển

Thời gian qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân xã Bản Hồ đã đoàn kết, nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, khai thác tiềm năng, thế mạnh địa phương, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân.

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Góp phần bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông

Thời gian qua, xã Văn Chấn đẩy mạnh truyền dạy tiếng nói, chữ viết dân tộc Mông nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc Mông, đồng thời giúp đồng bào hiểu, sử dụng và duy trì tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trong đời sống hằng ngày.

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Sắc màu văn hoá ở Lâm Thượng

Tháng Chín âm lịch, khi những bông nếp cái mẩy sữa căng tròn là thời điểm tốt nhất để làm cốm, cũng là lúc đồng bào người Tày, người Dao ở Lâm Thượng nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Cắc kéng” - lễ hội giã cốm nhằm tạ ơn trời đất, mừng mùa màng tươi tốt. Ngày nay, "Cắc kéng" được tổ chức thành Ngày hội văn hoá các dân tộc Lâm Thượng - cuộc triển lãm văn hoá sống động, hút khách.

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Giải mã bí ẩn khu di tích Hoàng thành Thăng Long từ các phát hiện khảo cổ học

Hoàng thành Thăng Long là di tích khảo cổ học có quy mô rất rộng lớn, với nhiều tầng văn hoá phức tạp. Mỗi lớp đất, mỗi dấu tích kiến trúc, mỗi di vật khảo cổ học… chứa đựng những bí ẩn của lịch sử Hoàng cung Thăng Long - nơi hội tụ, kế thừa và phát triển của văn hóa kiến trúc cung đình phương Đông, mang đậm bản sắc Việt Nam.

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Xác lập Kỷ lục Việt Nam 200 món chay từ sen

Sau 3 ngày diễn ra (từ 31/10 đến 2/11), Lễ hội Ẩm thực chay 2025 đã thu hút hơn 100 nghìn lượt khách đến tham quan, trải nghiệm và thưởng thức các hoạt động văn hóa, ẩm thực, cộng đồng. Đặc biệt, Lễ hội đã xác lập kỷ lục Việt Nam với 200 món chay từ sen.

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa - nơi bảo tồn bản sắc dân tộc

Nhà văn hóa thôn, bản, tổ dân phố được coi là “trái tim” của thiết chế văn hóa cơ sở. Đối với tỉnh vùng cao, biên giới có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống như Lào Cai, nhà văn hóa không chỉ là nơi hội họp của thôn, mà còn là địa điểm để người dân tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Từ giáo viên đến nhà phê bình văn học

Chiều muộn ở xã Bảo Ái, cô Lưu Khánh Linh vẫn ngồi giữa những chồng sách cao và tập bài viết của học sinh. Trên bàn làm việc, cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Ngọc Yến mở trang, bên cạnh là bản thảo bài phê bình văn học cô chuẩn bị gửi cho tạp chí. Hình ảnh quen thuộc ấy đã trở thành biểu tượng cho một hành trình đặc biệt: từ trường học ra diễn đàn, từ người truyền đạt tri thức đến nhà phê bình văn học. Quan trọng hơn, cô là người gieo mầm yêu văn chương cho thế hệ trẻ vùng nông thôn.

fb yt zl tw