Nâng cao chất lượng, đầu tư vào chế biến sâu để tăng giá trị cho chè xuất khẩu

Mỗi năm, Việt Nam xuất khẩu khoảng 145 nghìn tấn chè, dự báo tốc độ tăng khối lượng xuất khẩu chỉ 0,8%/năm. Để tăng được giá trị của chè xuất khẩu, cần thúc đẩy canh tác chè hữu cơ, mở rộng trồng các giống chè đặc sản, đồng thời đầu tư vào chế biến đa dạng sản phẩm…

Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 1/2025, Việt Nam xuất khẩu 9,7 nghìn tấn chè, giá trị đem về 16,4 triệu USD. Con số này giảm lần lượt 21,6% về lượng và 21,5% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Sản xuất chè hữu cơ để nâng cao giá trị xuất khẩu.
Sản xuất chè hữu cơ để nâng cao giá trị xuất khẩu.

XUẤT KHẨU CHÈ TĂNG TRƯỞNG VẪN RẤT CHẬM

Trong tháng đầu năm 2025, Pakistan vẫn duy trì vị thế là thị trường nhập khẩu chè lớn nhất của Việt Nam, chiếm 35,1% tổng lượng và 38,7% tổng giá trị xuất khẩu chè. Xuất khẩu sang thị trường này đạt 3,4 nghìn tấn, trị giá 6,4 triệu USD, giảm 24,8% về lượng và 30,3% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Đáng chú ý, xuất khẩu chè sang Nga ghi nhận mức tăng trưởng mạnh, đạt 632 tấn với tổng trị giá 1,2 triệu USD trong tháng 1/2025, tăng lần lượt 19,2% về lượng và 48,5% về giá trị. Trong khi đó, thị trường Đài Loan (Trung Quốc) đứng ở vị trí thứ ba với 713 tấn, đạt 1,16 triệu USD, giảm 23,2% về lượng và 15,3% về giá trị.

"Giá bình quân chè xuất khẩu năm 2024 đạt 1.765 USD/tấn, tăng 1,3% so với năm 2023. Trong tháng 1/2025, giá chè xuất khẩu trung bình đạt 1.693,7 USD/tấn, nhích nhẹ 0,2% so với tháng 1/2024".

Tổng cục Hải quan.

Nhìn lại năm 2024, Việt Nam xuất khẩu 145 nghìn tấn chè, với trị giá 256 triệu USD, tăng 25,4% về lượng và tăng 27% về trị giá so năm 2023.

Pakistan vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất mặt hàng chè của Việt Nam, chiếm tới 35,1% tổng lượng và 35,3% tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước. Nước này đã chi hơn 105 triệu USD để nhập gần 51 nghìn tấn chè từ Việt Nam. Đài Loan (Trung Quốc) đứng vị trí thứ hai, chiếm gần 10,3% tổng khối lượng và 12,5% tổng kim ngạch xuất khẩu chè của cả nước, đạt 14,9 nghìn tấn, tương đương 25,7 triệu USD.

Xuất khẩu chè Việt sang thị trường Trung Quốc trong năm 2024 đạt 13,3 nghìn tấn, giá trị 19 triệu USD, tăng 177% về lượng, tăng 85,2% về kim ngạch. Tỷ trọng xuất khẩu chè sang Trung Quốc chiếm 9,2% tổng lượng và 4,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chè của Việt Nam. Tuy nhiên, giá xuất khẩu chè bình quân sang Trung Quốc chỉ đạt 1.420 USD/tấn, giảm 33,2% so với năm 2023.

Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, Việt Nam đang là nhà cung cấp chè lớn nhất của nước này trong năm 2024. Quốc gia tỷ dân vốn chiếm vị trí số 1 về sản xuất và cung cấp chè trong nhiều thập kỷ và sở hữu diện tích trồng gấp 14 lần Việt Nam.

Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ, tổng lượng chè nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong năm 2024 đạt 125 nghìn tấn, với trị giá 556,6 triệu USD. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu 6,8 nghìn tấn chè sang Hoa Kỳ, đạt 9,8 triệu USD, tăng 46,3% về lượng và 32,4% về giá trị so với năm trước. Mặc dù xuất khẩu chè từ Việt Nam sang Hoa Kỳ có mức tăng trưởng cao, nhưng tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam vẫn còn thấp.

THÚC ĐẨY TRỒNG CHÈ ĐẶC SẢN, CHẾ BIẾN ĐA DẠNG SẢN PHẨM

Việt Nam đã trở thành quốc gia sản xuất, xuất khẩu chè đứng thứ 5 trên thế giới, xuất khẩu tới 74 quốc gia. Hiện, Việt Nam đã chế biến được khoảng 15 loại chè khác nhau, trong đó chè đen và chè xanh là hai sản phẩm chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong xuất khẩu. Tuy nhiên, tỷ lệ xuất khẩu chè đen có xu hướng giảm dần. Năm 2024, xuất khẩu chè đen chiếm tỷ lệ 42,5% và dự báo đến năm 2030, giảm xuống còn 41%; xuất khẩu chè xanh đạt tỷ lệ 55% vào năm 2024 và dự báo năm 2030 tăng lên 56%.

Theo đánh giá của các chuyên gia và người tiêu dùng quốc tế, chất lượng sản phẩm chè Việt Nam không thua kém bất kỳ quốc gia sản xuất chè nào trên thế giới. Đặc biệt, chè xanh Việt Nam được rất nhiều khách hàng đánh giá cao như chè xanh Mộc Châu, Thái Nguyên, Suối Giàng, Hà Giang, Ôlong Lâm Đồng, các sản phẩm chè ướp hương sen, nhài...

Ông Hoàng Vĩnh Long - Chủ tịch Hiệp hội Chè Việt Nam, cho biết ngành chè Việt Nam đã và đang phát triển theo hướng bền vững, áp dụng sản xuất theo các chứng nhận quốc tế. Điểm mạnh của Việt Nam là thổ nhưỡng khí hậu rất phù hợp sự phát triển của cây chè với nhiều vùng chè đặc sản, chất lượng cao như: Thái Nguyên, Sơn La, Lâm Đồng. Đặc biệt, Việt Nam còn có gần 20.000 ha chè shan rừng. Nhiều vùng chè shan cổ thụ hàng trăm năm.

“Có một điều đáng tiếc, phần lớn các sản phẩm nổi tiếng khi xuất khẩu ra nước ngoài đến tay người tiêu dùng lại không mang thương hiệu chè Việt Nam. Nguyên nhân là do phần lớn chè vẫn xuất khẩu thô, chưa có thương hiệu mạnh, trong khi hoạt động quảng bá cho chè Việt Nam cũng còn rất hạn chế”, ông Long nhấn mạnh.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, cho biết tổng diện tích cây chè cả nước hiện nay khoảng 122.000 ha. Các địa phương trồng chè chủ yếu là Thái Nguyên, Phú Thọ, Lâm Đồng, Nghệ An, Yên Bái, Hà Giang... Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có định hướng đến năm 2030, diện tích chè được chứng nhận sạch, an toàn (hữu cơ, GAP, VietGAP và tương đương) đạt hơn 70%; ứng dụng công nghệ cao trong các khâu tưới nước, bón phân, thu hái, bảo quản, chế biến...

Về thị trường xuất khẩu, ông Mạnh đưa ra dự báo sản lượng xuất khẩu chè của Việt Nam đến năm 2030 đạt 156.000 tấn, tăng trung bình 0,83%/năm, chiếm khoảng 80% sản lượng chè sản xuất ra. Các thị trường chính của sản phẩm chè Việt Nam vẫn là Pakistan, Trung Quốc, Nga, Indonesia,… và đang chuyển hướng xuất khẩu các sản phẩm chè chất lượng cao sang thị trường EU…

Theo ông Mạnh, rất khó tăng nhanh được khối lượng chè xuất khẩu. Mặt khác, trong bối cảnh giá chè xuất khẩu bình quân của Việt Nam mới chỉ bằng hơn một nửa so với giá chè bình quân của thế giới, muốn tăng cao được giá trị xuất khẩu, cần phải tăng giá bán. Để tăng giá chè xuất khẩu, phải đầu tư vào nâng cao chất lượng, đầu tư vào chế biến sâu và đa dạng sản phẩm, xây dựng thương hiệu cho chè Việt.

"Cục Trồng trọt đề ra mục tiêu diện tích chè hữu cơ cả nước đến năm 2030 đạt khoảng 11.000 ha, sản lượng đạt khoảng 70.000 tấn, tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái và Thái Nguyên. Phấn đấu đến năm 2030, diện tích chè đặc sản cả nước đạt khoảng 34,5 nghìn ha, sản lượng đạt khoảng 290.000 tấn".

Ông Nguyễn Quốc Mạnh Phó Cục trưởng Trồng trọt.

Đồng thời, cần bảo tồn, khai thác và phát triển các vùng chè shan tuyết phục vụ nguyên liệu cho sản xuất chè hữu cơ, chè đặc sản cũng như các sản phẩm chè chế biến có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, như: Vùng chè shan tuyết Hà Giang với diện tích hơn 7.000 ha; vùng trồng chè shan tuyết Suối Giàng (Yên Bái) với diện tích khoảng 400 ha, vùng chè shan tuyết Tà Xùa (Sơn La) khoảng 200 ha…

Cùng với sản xuất, giai đoạn từ nay đến năm 2030, ngành chè cần tập trung phát triển các mặt hàng chè mới có giá trị gia tăng cao, chế biến sâu, sản phẩm tinh chế cao cấp, được sử dụng trong các ngành thực phẩm và phi thực phẩm, dược phẩm hoặc mỹ phẩm; tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm chè.

vneconomy.vn

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Khẩn trương thi công kéo dây tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên

Khẩn trương thi công kéo dây tuyến 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên

Theo kế hoạch, chỉ còn chưa đầy một tháng nữa, Dự án Đường dây 500kV Lào Cai - Vĩnh Yên phải hoàn thành. Tại hai gói thầu số 1 và số 2 đi qua địa bàn tỉnh Lào Cai, các nhà thầu đang tiến hành đồng thời vừa lắp dựng cột vừa thi công kéo dây để đảm bảo tiến độ.

Thí điểm bán xăng sinh học E10 RON95 từ hôm nay 1/8

Thí điểm bán xăng sinh học E10 RON95 từ hôm nay 1/8

Từ hôm nay 1/8, Tổng công ty Dầu Việt Nam (PVOIL) thực hiện thí điểm bán xăng sinh học E10 tại các cửa hàng xăng dầu trên địa bàn TP. Hà Nội và TP. Hải Phòng và TP.HCM, chuẩn bị cho việc triển khai lộ trình mới của Chính phủ về việc bắt buộc sử dụng xăng sinh học tại Việt Nam từ đầu năm 2026.

Khoa học và công nghệ tạo đột phá phát triển

Khoa học và công nghệ tạo đột phá phát triển

Thời gian qua, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ (KH&CN) trên địa bàn tỉnh Lào Cai đã có nhiều đổi mới. Nhiều kết quả nghiên cứu khoa học có đóng góp tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cụ thể hóa Nghị quyết số 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thành Sinh kiểm tra, đôn đốc tiến độ GPMB Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Thành Sinh kiểm tra, đôn đốc tiến độ GPMB Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng

Chiều 31/7, Đoàn công tác của tỉnh do đồng chí Nguyễn Thành Sinh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng đoàn đã có chuyến kiểm tra thực địa tại các xã phía Nam của tỉnh, đôn đốc công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) thuộc phạm vi Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng.

Thủ tướng: 3 mục tiêu lớn cuối năm 2025 để hoàn thành xuất sắc đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông

Thủ tướng: 3 mục tiêu lớn cuối năm 2025 để hoàn thành xuất sắc đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông

Với yêu cầu phải hoàn thành xuất sắc đột phá chiến lược về hạ tầng giao thông, Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu tiếp tục tăng tốc, bứt phá với tinh thần thần tốc, táo bạo, phấn đấu tới ngày 19/8 có 2.476 km cao tốc, 1.397 km đường ven biển và đến cuối năm 2025 vượt mục tiêu 3.000 km cao tốc, hoàn thành gần 2.000 km đường ven biển, cơ bản hoàn thành sân bay Long Thành, tạo đà, tạo lực, tạo thế để bước vào kỷ nguyên mới.

fb yt zl tw