Khi nhắc đến thơ Nguyễn Khuyến, người ta thường nghĩ ngay đến mùa thu mà điển hình là 3 bài “Thu điếu”, “Thu ẩm”, “Thu vịnh” như một sự “mặc định” Nguyễn Khuyến là nhà thơ của mùa thu. Ít người nghĩ rằng trong toàn bộ thi tác cả chữ Hán và chữ Nôm của “nhà thơ làng quê” không chỉ viết về mùa thu mà còn có nhiều bài thơ xuân, không kể số lượng lớn câu đối mừng xuân mang giá trị hiện thực, thẩm mỹ và nhân văn.
Ảnh minh họa. |
Đối diện với mùa xuân, thơ Nguyễn Khuyến mang nỗi niềm đau xót của một bậc túc nho. Trước xuân, thi nhân buồn rầu muốn dứt hết mọi nỗi lo toan để yên phận tuổi già: “Năm mới vừa đến, năm cũ qua/Mọi người vui vẻ sao ta buồn/Thương mình gân cốt đã mòn hao/Nào hay ngày tháng cứ lao đi/Không lịch biết đâu là Giáp Tý/Thù còn đâu dám đọc Xuân Thu…” (Cảm nghĩ đầu xuân) và xót xa tự vấn mình: “Nhiễu nhương gió bụi bác nho gàn/Nhàn rỗi khác gì bị trói chân/Danh hão chỉ hơn anh bị gậy/Tài xoàng, e kém chú che tàn/Hé nhìn nửa gối trời cao rộng/Nằm khểnh bên song tính chiếc đơn…” (Mùa xuân bị bệnh).
Cảnh xuân trong thơ Tam nguyên Yên Đổ mang nỗi buồn khắc khoải, trong cái nền xuân không vui ấy là hình ảnh một ông già mang nỗi niềm cô quạnh muốn quên hết sự đời. Nhưng nào có quên được bởi vẫn hàng ngày hiển hiện ra trước mắt thi nhân. Xuân về đấy nhưng vẫn còn đó bao âu lo thấp thỏm đang chờ: “Tháng Chạp hai mươi bốn chợ Đồng/Năm nay chợ họp có vui không?… Hàng quán người về nghe xao xác/Nợ nần năm hết hỏi lung tung/Năm ba ngày nữa thì xuân tới/Pháo trước nhà ai một tiếng đùng” (Chợ Đồng) và bài thơ như bức tranh xuân quê sống động, gần gũi, gợi nhớ ngày Tết của vùng chiêm trũng nghèo khó.
Nét xuân trong thơ được Nguyễn Khuyến phác họa sao mà ảm đạm: “Là là mặt đất lớp sương sa/Ánh sáng ban mai vẫn mập mờ/Hạt quất ngoài vườn chờ nứt vỏ/Giò tiên trong chậu chửa bung hoa/Đầm đìa lệ sớm cánh tre rủ/Lạc lõng canh khuya tiếng hạc qua…” (Xuân nhật 1). Ở bài “Xuân Canh Tý” viết năm 1900, cụ Tam nguyên đón xuân trong cảnh buồn tái tê của tuổi tác: “Năm nay sáu sáu tuổi trời/Mỏi mòn năm tháng chảy trôi mà buồn/Lợi răng lục đục đôi phương/Rối bời râu tóc nhuốm sương trên đầu/Qua ba ngày tết vơi bầu/Hoa trong chậu cảnh như hầu muốn rơi/Bệnh giá thơ hứng cũng vơi/Rét đài sưởi ấm ngù vùi mừng xuân”.
Đón Tết, mừng xuân là dịp mọi người chúc nhau sức khỏe, ấm no, hạnh phúc. Là bậc nho sĩ học rộng tài cao, Nguyễn Khuyến hiểu rõ việc đầu tiên của người quân tử là biết “trị gia” nên nhà thơ dạy các con: “Năm mới vừa sang năm cũ qua/Tuy nghèo, ta vẫn mến nhà ta/Chín sào tư thổ là nơi ở/Một bó tàn thư ấy nghiệp nhà/Trước cửa khói dày non khuất bóng/Bên tường, mưa ít, cúc thưa hoa/Các con nối chí cha nên biết/Nghiên bút đừng quên lúa, đậu, cà” (Ngày xuân dạy các con).
Không phải thơ xuân của Nguyễn Khuyến đều mang nỗi buồn u sầu, không khí mùa xuân và lòng yêu thiên nhiên đem lại cho thơ xuân Nguyễn Khuyến sắc thái riêng. Có những câu thơ thấp thoáng niềm vui nho nhỏ: “Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng/Ngoài ngõ bi bô rủ chung thịt” (Cảnh Tết).
Với tâm hồn lặng lẽ nhưng nhạy cảm, Nguyễn Khuyến đón “Gió đông phơi phới rước xuân vào” trong nỗi suy tư se lạnh cõi lòng và những giọt mưa xuân của trời hay mưa tự lòng người: “Mong xuân, xuân đến không hay/Hạt mưa lất phất từng mây im lìm/Cây xanh nảy lộc bên thềm/Trên trời, dưới nước cá chim vẫy vùng” (Xuân nhật 3).
Cái ấm áp, vui tươi ấy dường như chỉ thoảng qua trong thơ xuân Nguyễn Khuyến, còn cơ bản phủ lên trong thơ xuân của Tam nguyên là nỗi cơ hàn của bản thân trong “Năm gian nhà nhỏ thấp le te/Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe”, và cái xao xác, lo âu, buồn thương của làng quê luôn hiện hữu trong cuộc sống: “Năm nay cày cấy vẫn chân thua/Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa” (Chốn quê) cảnh đời như thế thì đón xuân vui sao được.
Thơ viết về mùa xuân của Nguyễn Khuyến không nhiều, nhưng cụ đã để lại một dòng thơ xuân đầy day dứt, đầy yêu thương gắn bó với cuộc đời. Đây chính là bản sắc thơ xuân mà cụ Tam nguyên Yên Đổ đóng góp vào thơ xuân đất Việt nói riêng, nền thi ca Việt Nam nói chung.