
Tiến sĩ Tạ Mạnh Hùng, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) cho biết, những năm gần đây, ngành mỹ phẩm Việt Nam tăng trưởng nhanh, với quy mô thị trường đạt khoảng 2,3–2,5 tỷ USD (tính đến năm 2024), tốc độ tăng trưởng trung bình 10–15% mỗi năm. Thị trường tập trung chủ yếu ở các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, nhưng đang mở rộng dần đến khu vực nông thôn, đồng bằng và miền núi. Tuy nhiên, 80–90% mỹ phẩm tiêu thụ trong nước vẫn là hàng nhập khẩu từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, châu Âu…, trong khi sản phẩm nội địa còn hạn chế về công nghệ, nghiên cứu và thương hiệu.
Tiến sĩ Tạ Mạnh Hùng cho rằng với sức tiêu thụ lớn và lợi nhuận cao, mỹ phẩm đang trở thành mục tiêu làm giả, làm nhái của nhiều đối tượng. Song song đó, tình trạng sản xuất, kinh doanh mỹ phẩm tự chế, handmade, homemade nở rộ trong những năm gần đây, gia tăng thách thức kiểm soát. Thực tế, nhiều cơ sở sản xuất mỹ phẩm nhỏ lẻ chưa chú trọng kiểm soát chất lượng, chưa tuân thủ đúng nguyên tắc “Thực hành tốt sản xuất mỹ phẩm”, thậm chí chưa đáp ứng các quy định về công bố sản phẩm, quảng cáo, ghi nhãn.

Một thách thức lớn hiện nay là sự bùng nổ kênh phân phối online. Bà Lê Thị Hà, Trưởng Phòng Quản lý Hoạt động thương mại điện tử, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương) thông tin, hơn 60% người tiêu dùng Việt Nam mua mỹ phẩm qua thương mại điện tử, đặc biệt trên Shopee, TikTok Shop và mạng xã hội như Facebook. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh mỹ phẩm online còn nhiều rủi ro như hàng giả, nhái, không rõ nguồn gốc; nhái thương hiệu; bán hàng chưa công bố; quảng cáo sai công dụng; lợi dụng livestream để tiêu thụ sản phẩm kém chất lượng.
Hiện nay, việc công bố nguồn gốc mỹ phẩm vẫn chủ yếu dựa vào người bán, trong khi các nền tảng thương mại điện tử chỉ mới yêu cầu cung cấp giấy tờ pháp lý như phiếu công bố sản phẩm nhưng chưa có công cụ đối chiếu dữ liệu với cơ quan quản lý. Quy định hiện hành cũng chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất, chưa bao quát hoạt động kinh doanh trên môi trường số. Điều này tạo kẽ hở để người bán chỉnh sửa phiếu công bố hợp thức hóa hàng giả; các chế tài xử lý chưa bắt kịp các mô hình mới như livestream, tiếp thị liên kết hay bán hàng xuyên biên giới.
Đại diện Phòng Quản lý Hoạt động thương mại điện tử (Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương) đề xuất: Cần làm rõ trách nhiệm của người bán trong việc công khai phiếu công bố, thông tin nhập khẩu, phân phối. Các sàn thương mại điện tử phải áp dụng giải pháp kỹ thuật và cơ chế cảnh báo với sản phẩm vi phạm; tăng cường ứng dụng công nghệ, xây dựng cơ sở dữ liệu đồng bộ để kiểm chứng và truy xuất nguồn gốc, kết nối với cơ quan quản lý và công khai trên Cổng thông tin một cửa quốc gia. Luật Thương mại điện tử cũng cần sửa đổi để quy định rõ hơn việc xác thực danh tính người bán, trách nhiệm của mạng xã hội có hoạt động thương mại và chế tài nghiêm khắc với hành vi quảng bá, livestream bán mỹ phẩm giả, sai sự thật.

Ở góc độ quản lý nhà nước, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Dược Tạ Mạnh Hùng đề xuất cần tăng cường quản lý và hậu kiểm, thường xuyên kiểm tra thị trường, nâng cao chế tài xử phạt với các hành vi vi phạm về công bố, quảng cáo, sản xuất mỹ phẩm; cần xây dựng cơ sở dữ liệu truy xuất nguồn gốc minh bạch, hỗ trợ phát triển ngành mỹ phẩm nội địa gắn với nguyên liệu tự nhiên, thảo dược, tạo điều kiện về vốn, xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường quốc tế. Bộ Y tế hiện đang xây dựng Nghị định quản lý mỹ phẩm, tuân thủ Hiệp định Hòa hợp mỹ phẩm ASEAN và tham khảo kinh nghiệm quốc tế; dự kiến trình Chính phủ trong tháng 9/2025, nhằm đơn giản hóa thủ tục nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát chặt chẽ.
Ông Nguyễn Tấn Phong, Giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật (VECOM), cho rằng, cơ quan quản lý nhà nước cần sớm hoàn thiện khung pháp lý, tăng chế tài xử phạt, quy rõ trách nhiệm của doanh nghiệp, KOL (người dẫn dắt dư luận), sàn thương mại điện tử. Các bên liên quan đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về mỹ phẩm, áp dụng mã QR và hệ thống truy xuất nguồn gốc để người tiêu dùng dễ dàng kiểm tra, hạn chế hàng giả.