LCĐT - Trong căn nhà nhỏ tại Khu phố 4, thị trấn Phố Lu (Bảo Thắng), cựu chiến binh Hoàng Duy Xuyên lật từng trang hồi ký ghi lại kỷ niệm với nghiệp “nhà binh”. Những kỷ niệm thời kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ngày ông cùng đơn vị tiến vào giải phóng Sài Gòn lại ùa về…
Hồi ức ngày toàn thắng
Ông Hoàng Duy Xuyên, sinh năm 1946 tại xã Gia Điền (huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ). Năm 1969, chàng thanh niên 20 tuổi khi ấy nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tham gia nhập ngũ vào Trung đoàn 66, Sư đoàn 10, B3 (sau đó, khi mở Chiến dịch Hồ Chí Minh, từ B3 thành lập Quân đoàn 3 tiến công vào Bộ Tổng tham mưu địch). Trong chiến dịch, Quân đoàn 3 có nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ Đồng Dù, sân bay Tân Sơn Nhất, các quận: Tân Bình, Phú Nhuận, đưa một bộ phận lực lượng thọc sâu, hợp điểm với các đơn vị khác tại Dinh Độc Lập.
![]() |
Cựu chiến binh Hoàng Duy Xuyên. |
Ký ức ngày 30/4 năm ấy hiện về nguyên vẹn trong cái nhìn xa xăm của người cựu chiến binh. Ông kể: Ngày hôm đó, đoàn xe đơn vị tập kết tại một vị trí ở khu vực Củ Chi, thay quân tư trang, cắm thêm cành cây để ngụy trang. Khí thế hừng hực, quân ta đi đến đâu, thế trận của địch vỡ đến đó. Trên đường tiến vào Sài Gòn, địch chạy tán loạn. Chúng bỏ cả súng, đạn, ba lô, quân tư trang ngổn ngang trên đường. Xe tăng, xe bọc thép của chúng hoảng loạn đâm xuống ruộng, từng toán địch bỏ chạy tháo thân. Để tránh bị bắt, nhiều tên lính lẻn vào nhà dân cướp của, lấy quần áo giả làm dân thường. Trên quốc lộ, cứ cách một đoạn chúng lại đổ ụ cát, xếp các thùng phi ra để cản bước tiến của ta. Trên đà của người chiến thắng, đơn vị của ông vững bước tiến lên. Tiến vào trung tâm Sài Gòn, nhân dân hai bên đường đông nghịt vẫy đoàn giải phóng quân, đường phố rợp cờ hoa. Ông hồi tưởng: “Chúng tôi tiến qua sân bay Tân Sơn Nhất, những chiếc trực thăng của địch không kịp khởi động, quân giải phóng tiến vào thần tốc ngăn chặn chúng bay lên bầu trời. 10 giờ hôm đó, đoàn xe chúng tôi đang từ từ tiến vào mục tiêu mà đơn vị đảm nhiệm, bỗng thấy súng từ lầu 3 bắn vào xe đơn vị, một viên đạn xuyên qua làm thủng phần tay áo của tôi rồi trúng vào lưng một chiến sĩ”. Lập tức, các chiến sỹ ta đồng loạt nổ súng, bọn địch vội chạy tụt vào trong
Đơn vị tiếp tục di chuyển, đúng 11 giờ trưa ngày 30/4 thì chiếm được Bộ Tổng tham mưu Ngụy. Đồng thời, đơn vị bạn đã cắm được lá cờ Giải phóng lên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu chiến dịch Hồ Chí Minh thắng lợi hoàn toàn.
Hồi ức giữa rừng xanh…
Đối với ông, ký ức ngày độc lập sẽ mãi không quên. Để có ngày chiến thắng ấy, ông cũng như bao đồng chí, đồng đội đã có những ngày tháng chiến đấu gian khổ, cái chết luôn cận kề. Cuối năm 1969, chàng thanh niên Hoàng Duy Xuyên xung phong vào chiến trận, cùng tuổi thanh xuân đi khắp miền Nam. Ngày ra trận, trong tiếng nghẹn ngào của người mẹ và chị gái, ông cũng nhưng bao chàng trai trẻ nuốt nước mắt vào trong, bừng bừng khí thế bước trên con đường cách mạng: “Ra đi giữ trọn lời thề, đánh tan giặc Mỹ mới về quê hương”. Trên gò má người mẹ, hai hàng nước mắt tuôn rơi. Ông nhớ như in lời mẹ dặn: “Con đi nhé! Nhớ giữ gìn sức khỏe”. Hình ảnh ấy luôn thôi thúc bước chân ông trên đường hành quân. Người lính ra trận có vui, buồn, nhưng luôn đau đáu một tình yêu quê hương, đất nước, gia đình. Và đôi khi, tình yêu, nỗi nhớ ấy trở nên quay quắt, quặn lòng, khiến họ rơi nước mắt. Đó là khi cả sư đoàn ăn tết tại một cánh rừng mùa thay lá trên nước Lào. Những giọt nước mắt nóng hổi hòa với tiếng lá khô rơi, giọt nước mắt nhớ nhà, nhớ quê, nhớ người yêu, nhớ dáng mẹ tiễn con... Bom đạn không làm họ chùn chân, nản chí, những tình cảm thiêng liêng, những phút giây dạt dào xúc cảm ấy như tiếp thêm niềm tin cho họ trong chiến đấu giành lại độc lập cho Tổ quốc để trở về đoàn tụ với gia đình.
Trên đường hành quân, đáng nhớ nhất với ông là vào mùa đông ở Tây Nguyên cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, mưa gió, vô cùng cực khổ. Các chiến sỹ nằm dưới hầm ẩm ướt, chấy, rận, rệp đầy người, ốm đau không có thuốc sinh ra phù nề, bệnh tật và sốt rét là chuyện thường tình. Mùa mưa năm 1971, đơn vị ông hành quân đến Ngã ba biên giới (Ngã ba Đông Dương) để lấy gạo, thời gian gùi gạo mất cả tháng. Ông kể: “Năm ấy, đơn vị có cậu tên là Tâm người Bắc Thái, tuy chưa đủ khỏe sau trận sốt rét, nhưng cũng xung phong đi lấy gạo. Một hôm, kiệt sức không theo kịp đơn vị, Tâm đã dạt vào rừng cách đường giao liên khoảng 5 mét để mắc võng nghỉ. Buổi tối, đơn vị kiểm tra quân số, thấy thiếu Tâm liền cho người quay lại tìm, nhưng không thấy nên tưởng Tâm đã bị địch bắt. Một tuần trôi qua thì bất ngờ chúng tôi nhận được thông báo của binh trại…”. Kể đến đây, ông nghẹn ngào: “Tâm không còn nữa. Chúng tôi đến nơi, không ai cầm được nước mắt. Mọi người xắn tay lo cho phần mộ. Sao bạn khổ thế Tâm ơi! Sao bạn không chờ đến ngày đất nước được thanh bình trở về quê hương xây dựng tổ ấm!”.
Suốt những năm tháng chiến tranh, ông đã chứng kiến không biết bao nhiêu đồng đội ngã xuống. Trải qua hai chiến dịch Tây Nguyên và Hồ Chí Minh, bản thân ông cũng bị địch bắn bị thương tới 4 lần. Thấm thoắt 40 năm trôi qua, sau thời khắc lịch sử ấy, những kỷ niệm chiến trường xưa đôi lúc lại ùa về trong giấc mơ của ông, hiện hữu qua từng câu chuyện thường ngày ông kể lại. Ông vẫn thường nhắn nhủ: “Tôi là người lính, tự hào vì đã cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho cách mạng. May mắn được trở về sau thời chinh chiến, tôi chỉ mong thế hệ trẻ biết cống hiến cho đất nước, gìn giữ sự tự do mà những người như chúng tôi đã dành cả máu xương để gìn giữ vẹn toàn”.