Điều kiện hưởng lương hưu
Theo quy định tại Điều 54 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019), điều kiện hưởng lương hưu năm 2023 được quy định với nhóm tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc và tự nguyện khác nhau.
Người lao động lĩnh lương hưu tại một điểm chi trả tại Hà Nội.
Đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc làm việc trong điều kiện lao động bình thường đáp ứng đủ 2 điều kiện sau: Khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên; đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định, đối với lao động nam từ đủ 60 tuổi 9 tháng và lao động nữ từ đủ 56 tuổi.
Điều kiện hưởng lương hưu đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo quy định tại Điều 73 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 (sửa đổi bởi Điểm c Khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019) gồm: Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định với lao động nam đủ 60 tuổi 9 tháng, lao động nữ đủ 56 tuổi; đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên.
Trường hợp người lao động đã đủ điều kiện về tuổi theo quy định để hưởng lương hưu nhưng thời gian đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 20 năm thì được đóng cho đến khi đủ 20 năm để hưởng lương hưu.
Lao động nữ là cán bộ, công chức cấp xã hoặc là người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn tham gia bảo hiểm xã hội khi nghỉ việc đáp ứng điều kiện: Có từ đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội và đủ 56 tuổi.
Thời gian người lao động nghỉ hưu trước tuổi có thể từ 5 năm đến 10 năm quy định tại Điều 54 và Điều 55 của Luật Bảo hiểm xã hội 2014 (được sửa đổi bổ sung bởi Điều 219 Bộ luật Lao động 2019).
Mức hưởng lương hưu năm 2023 được tính căn cứ vào tỷ lệ hưởng lương hưu theo mức lương đóng bảo hiểm xã hội của người lao động.
Lương hưu hàng tháng = Tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng x Mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội.
Về tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nam, họ phải tham gia bảo hiểm xã hội đủ 20 năm thì được hưởng 45%, sau đó cứ thêm mỗi năm thì cộng thêm 2%, tối đa 75%.
Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75% thì ngoài lương hưu, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp một lần.
Về tỷ lệ hưởng lương hưu đối với lao động nữ, thời gian đóng bảo hiểm xã hội của lao động này phải đủ 15 thì được hưởng 45%, sau đó cứ thêm mỗi năm thì cộng thêm 2%, tối đa 75%.
Trường hợp người lao động có thời gian đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75% thì ngoài lương hưu, người lao động sẽ được hưởng trợ cấp một lần.
Đối với cả lao động nam và lao động nữ, nếu nghỉ hưu trước tuổi do suy giảm khả năng lao động, tỷ lệ hưởng lương hưu hàng tháng được tính như trên, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với quy định thì giảm 2%.
Đề xuất giảm điều kiện số năm đóng bảo hiểm xã hội
Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) hiện đang đề xuất giảm điều kiện về số năm đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng lương hưu hằng tháng từ 20 năm xuống 15 năm, nhưng cũng không đưa trường hợp nghỉ hưu sớm trước tuổi quy định vào diện thụ hưởng vì lo ngại mức lương hưu thấp.
Với mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi, người lao động bị trừ 2% mức hưởng. Ngược lại, nếu lao động nam đóng bảo hiểm xã hội trên 35 năm và nữ đóng hơn 30 năm thì ngoài lương hưu tối đa 75% sẽ nhận trợ cấp một lần cho số năm đóng thừa.
Dự thảo Luật đề xuất mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%, cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.
Đối với trường hợp người lao động đã đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định mà tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội, thì mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội sau độ tuổi nghỉ hưu cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75% được tính bằng 2 lần của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội.