Bảo tồn, phát huy trang phục dân tộc thiểu số: Cần mô hình hiệu quả

Trang phục của các dân tộc thiểu số là di sản văn hóa lưu giữ giá trị tinh thần quý báu, bản sắc riêng của các tộc người. Tuy nhiên, những năm qua, các di sản này đang bị mai một dần, rất cần những động thái quan tâm, những mô hình hiệu quả để bảo tồn và phát huy.

Nguy cơ mai một

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số. Mỗi dân tộc đều có sắc thái văn hóa riêng đang được chú trọng bảo tồn và phát huy từ trang phục, các nghề thủ công truyền thống, các trò chơi, dân ca...

Trong số ấy, trang phục dân tộc chiếm vai trò quan trọng, gắn liền với đời sống sinh hoạt, đời sống tinh thần của mỗi dân tộc và đều mang vẻ đẹp riêng. Tuy nhiên, những năm qua, dưới sự tác động của đời sống kinh tế, xã hội, nhất là trong giai đoạn hội nhập quốc tế, bùng nổ thông tin hiện nay, sự giao thoa, du nhập văn hóa của các vùng miền đang có xu hướng lấn át, làm mờ nhạt văn hóa bản địa. Trang phục dân tộc cũng là một trong những yếu tố bị ảnh hưởng mạnh mẽ, đang có nguy cơ mai một, đặc biệt đối với trang phục của nhóm dân tộc thiểu số có dân số ít dưới 50.000 người.

Tại một số địa phương là nơi sinh sống của các đồng bào thiểu số như Thái Nguyên, Lào Cai, Sơn La, Hòa Bình..., những năm qua đã nhận thấy sự vắng bóng đáng lo ngại của trang phục dân tộc, thay vào đó là trang phục hiện đại của người Kinh, thậm chí các phong cách quần áo mang đậm nét thời trang nước ngoài du nhập vào Việt Nam, đặc biệt đối với thanh, thiếu niên.

Đơn cử, trang phục của đồng bào người Dao trước kia được sử dụng khá phổ biến, được đánh giá là một trong những trang phục dân tộc rất đặc trưng, rất đẹp, nhiều lần xuất hiện trong phim ảnh, các MV ca nhạc. Nhưng mấy năm nay, trang phục Dao truyền thống dần ít được sử dụng. Ngoài bộ phận thanh, thiếu niên thích mặc trang phục hiện đại, một bộ phận không nhỏ người Dao mặc trang phục truyền thống nhưng trên chất liệu công nghiệp. Hiện rất ít nhóm người Dao còn trồng bông, dệt vải, tự túc đồ mặc. Một số nhóm không còn khung dệt, thay vào đó là máy khâu hiện đại. Kỹ thuật chế biến thuốc nhuộm theo phương pháp cổ truyền dần dần mất đi, người dân không còn trồng chàm mà mua cao chàm bán sẵn hoặc mua vải nhuộm sẵn màu chàm. Trước đây, bé gái người Dao ở độ tuổi lên sáu, bảy đều tự thêu được đồ. Bây giờ các thiếu nữ Dao thay thêu thùa họa tiết bằng vải in hoa sẵn, thậm chí không tự may thêu được quần áo nữa.

Hoặc như người Sán Dìu sống quanh chân núi Tam Đảo (Vĩnh Phúc) với khoảng 35.000 người, thường ngày họ đều mặc trang phục hiện đại, chỉ lễ, Tết hay dịp đặc biệt mới mặc trang phục truyền thống dân tộc.

Với dân tộc Tây Nguyên, những bộ xà rông nổi tiếng được dệt bằng vải thổ cẩm ngày trước nay cũng dần bị thay thế bằng vải công nghiệp, dệt in sẵn. Ngoài ra còn hiện tượng “biến tấu” một cách đáng buồn các trang phục truyền thống của dân tộc, như kết hợp áo truyền thống với quần jean, đi dép lê, cắt tà áo cho ngắn đi...

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự mai một trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số. Bên cạnh sự giao thoa văn hóa, tác động của công nghệ 4.0, sự phát triển của công nghiệp may mặc, còn phải kể đến sự bất tiện của một số trang phục dân tộc, hoặc giá thành đắt đỏ của mỗi sản phẩm...

Cần mô hình hiệu quả

Từ năm 2019, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án "Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay". Thời gian thực hiện của Đề án từ năm 2019 đến năm 2030 với mục tiêu bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số, góp phần cho sự phát triển bền vững văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh việc đưa trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, nâng cao lòng tự hào, ý thức bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc.

Những năm qua, nhiều địa phương đã triển khai các mô hình hiệu quả nhằm bảo tồn trang phục dân tộc. Đơn cử, tỉnh Bắc Kạn có 34 dân tộc thiểu số sinh sống, chiếm tỉ trọng lớn nhất là các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mông, Sán Chay, Hoa đã nhanh chóng triển khai Đề án bằng những hành động tích cực như tiến hành khảo sát, kiểm kê, đánh giá trang phục truyền thống của các dân tộc, lên phương án bảo tồn. Trong 2 năm triển khai, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp với các huyện Ba Bể, Pác Nặm và thành phố Bắc Kạn xây dựng được 3 cụm pa nô tuyên truyền về trang phục truyền thống dân tộc thiểu số; phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh lựa chọn 8 thôn thuộc 8 huyện, thành phố để tổ chức tập luyện, trình diễn trang phục truyền thống lồng ghép trong chương trình văn nghệ chào mừng của Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc năm 2022...

Trên địa bàn tỉnh, trang phục truyền thống của dân tộc Tày tại các địa phương đến thời điểm hiện tại vẫn được bảo tồn khá tốt. Trang phục truyền thống của người Sán Chay (Sán Chỉ) ở xã Bộc Bố (Pác Nặm) còn được sử dụng và bảo tồn khá nguyên vẹn, trang phục được sử dụng khá thường xuyên trong sinh hoạt hằng ngày, các sự kiện quan trọng như lễ, Tết, các dịp sinh hoạt văn hóa, lễ hội truyền thống của địa phương, thậm chí cả khi đi chợ phiên...

Một mô hình khác tại Sóc Trăng, những người quản lý văn hóa đã khuyến khích dịch vụ cho thuê trang phục truyền thống ở những điểm du lịch, để chụp ảnh cưới, chụp ảnh lưu niệm; Tổ chức các chương trình trình diễn trang phục truyền thống các dân tộc gắn với lễ hội văn hóa, sự kiện của địa phương. Trang phục truyền thống cũng được đưa vào trường học thông qua việc Bảo tàng tỉnh Sóc Trăng đã tặng 600 bộ trang phục truyền thống (nam, nữ) dân tộc Khmer cho học sinh dân tộc các trường dân tộc nội trú.

Theo Tiến sĩ Phạm Cao Quý, Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để bảo vệ và phát huy được di sản văn hóa phi vật thể trang phục truyền thống, trước hết cần nâng cao và thay đổi nhận thức của xã hội về nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể. Bên cạnh đó, cần duy trì tập quán sử dụng trang phục thông qua việc gìn giữ, thực hành các truyền thống văn hóa khác nhằm tạo môi trường, không gian, điều kiện để di sản văn hóa trang phục truyền thống của cộng đồng, dân tộc ngày càng gắn bó và hiện hữu trong các hoạt động văn hóa này. Mặt khác, những mô hình bảo tồn đã được áp dụng hiệu quả tại các địa phương cũng cần được học hỏi, nhân rộng, đặc biệt tại các nơi đang có nguy cơ cao biến mất trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số.

Báo Pháp luật null

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Gia vị đặc biệt của phở Việt

Gia vị đặc biệt của phở Việt

Trong bí quyết nấu phở của các nghệ nhân làng phở Vân Cù (Nam Định) có một thứ gia vị không thể thiếu được là nước mắm. Mắm ngon, cùng với các gia vị đúng chuẩn sẽ tạo nên món phở ấn tượng đối với bất kỳ thực khách nào.

Khai trương bảo tàng nghệ thuật kính màu đầu tiên tại Việt Nam

Khai trương bảo tàng nghệ thuật kính màu đầu tiên tại Việt Nam

Tối 15/3, Bảo tàng Nghệ thuật kính màu - bảo tàng đầu tiên tại Việt Nam chuyên về nghệ thuật kính màu đã chính thức khai trương tại Trại Da Vinci, xã Ba Trại, huyện Ba Vì, Hà Nội, đánh dấu sự ra đời của một không gian nghệ thuật độc đáo với nhiều tác phẩm kính màu từ khắp nơi trên thế giới.

Ra mắt cuốn sách tuyển chọn hơn 70 bài viết, phát biểu của nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết

Ra mắt cuốn sách tuyển chọn hơn 70 bài viết, phát biểu của nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết

Nhằm góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới và hội nhập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách "Đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước", tuyển chọn hơn 70 bài viết, bài phát biểu, thư của nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết từ năm 2000 đến năm 2010.

Văn hóa cà phê - Hương vị kết nối con người và vùng đất Tây Nguyên

Văn hóa cà phê - Hương vị kết nối con người và vùng đất Tây Nguyên

Buôn Ma Thuột - mảnh đất đại ngàn Tây Nguyên, nơi hương vị cà phê đậm đà đã trở thành một phần văn hóa không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Bất cứ khi nào đặt chân đến Ban Mê, bạn đều có thể thưởng thức những ly cà phê được pha chế theo nhiều cách khác nhau, mang đậm dấu ấn bản địa, làm say lòng người.

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

fb yt zl tw