Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News
[Ảnh] Tôi là: Bánh chưng đen

[Ảnh] Tôi là: Bánh chưng đen

Dưới chân núi Khau Mạ cổ tích, trong không gian văn hóa nhà sàn và nhờ đôi tay khéo léo của những người phụ nữ dân tộc Tày, tôi được sinh ra.

Thiết kế chưa có tên.zip - 2.jpeg
Từ chiếc bánh truyền thống có mặt ở mâm cỗ của người Tày, tôi được phát triển thành sản phẩm OCOP 3 sao, có mặt ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước.
Thiết kế chưa có tên.zip - 1.jpeg
Từ xa xưa, đồng bào Tày đã coi chúng tôi là món ăn truyền thống. Đặc biệt trong các ngày lễ, tết không thể vắng mặt trên mâm cỗ cúng tổ tiên. Những giá trị quý giá đó đến nay vẫn được bà con ở bản Mạ, thị trấn Khánh Yên, huyện Văn Bàn duy trì và phát triển. Từ việc gói bánh phục vụ cho gia đình, bà con đã coi việc làm ra chúng tôi là nghề, chúng tôi trở thành sản phẩm hàng hóa, góp phần tăng thu nhập cho người nông dân.
Thiết kế chưa có tên.zip - 3.jpeg
Đây là bà Hoàng Thị Huế và con gái. Bà Huế là 1 trong 2 phụ nữ Tày ở bản Mạ sản xuất ra chúng tôi nhiều nhất. Học theo các bà, các mẹ, khi chỉ mới 13,14 tuổi, bà Huế đã biết gói bánh chưng đen. Nhà gần chợ nên hằng ngày bà gói chúng tôi và đem ra chợ bán. Sau đó nhiều người thưởng thức và thấy chúng tôi có hương vị đặc biệt. Chúng tôi được yêu thích và người dân đặt bà Huế gói bánh ngày càng nhiều hơn. Vào các ngày rằm hay lễ, tết, chúng tôi được gói thành hàng nghìn cái và bán đi nhiều địa phương trong nước. Hằng ngày, có người đặt mua, bà Huế vẫn gói được vài trăm bánh/ngày.
Thiết kế chưa có tên.zip - 4.jpeg
Điều khiến chúng tôi đặc biệt hơn những chiếc bánh chưng đen ở địa phương khác có lẽ bắt đầu từ nguyên liệu. Ướp trong “ hương trời - vị đất”, Khảu Tan Đón - đặc sản xã Thẳm Dương chính là nguyên liệu chính để tạo ra chúng tôi. Khảu Tan Đón là cái tên mà người Tày, người Thái ở xã Thẳm Dương đặt cho giống lúa nếp trắng, hạt tròn, dẻo thơm gắn liền với câu chuyện về nguồn gốc nhuốm màu huyền bí. Những chiếc bánh được gói từ Khảu Tan đón luôn thơm, dẻo, tạo nên tinh hoa của ẩm thực.
Thiết kế chưa có tên.zip - 5.jpeg
Thiết kế chưa có tên.zip - 6.jpeg
Thêm một điều đặc biệt nữa, những hạt gạo trắng sẽ không được gói ngay mà được trộn với một loại bột than đen. Bà con gọi đó là bột thân núc nác. Đây là cây dược liệu, có nhiều công dụng đối với sức khỏe con người và đặc biệt, loại bột này được coi như một chất bảo quản an toàn từ thiên nhiên. Chúng sẽ giữ chúng tôi ở nhiệt độ ngoài trời khoảng 4, 5 ngày mà không bị hỏng. Thân núc nác được chặt, phơi khô, đem đốt thành than. Sau đó than núc nác được xay nhuyễn, trộn với Khảu Tan Đón. Khi lớp bột than mịn áo đều trên hạt gạo, bà con sẽ đem gạo đi sảy, tạp chất sẽ bay đi giữ lại những hạt gạo bóng, đen đều để gói bánh.
Thiết kế chưa có tên.zip - 7.jpeg
Nhân bánh gồm đỗ xanh, thịt lợn bản trộn với một chút muối, bột ngọt và hạt tiêu. Thịt ba chỉ tươi ngon có màu đỏ nhạt hoặc hồng tươi, bóng nhẹ và lớp mỡ xen giữa có màu trắng sáng, nhìn căng và chắc.
Thiết kế chưa có tên.zip - 8.jpeg
Lá dong để gói là những chiếc lá có màu xanh tươi, đậm, phiến tán lá to, rộng. Lá dong tươi có có độ dai tốt, không bị giòn hay dễ gãy, nên chọn lá dong loại bánh tẻ, không quá già cũng không quá non. Lá được rửa sạch và lau khô, cắt đều 2 đầu. Lạt buộc được chẻ từ những cây tre bánh tẻ, bà con thường hong trên gác bếp để lạt dai và bảo quản được lâu ngày.
Thiết kế chưa có tên.zip - 9.jpeg
Người Tày ở Văn Bàn ít khi gói chúng tôi bằng khuôn. Bà con thường gói bánh gù, bánh dài. 2 chiếc lá dong lật phần sau lá rồi xếp tráo đầu đuôi, chồng lên nhau. Tiếp theo lấy 1 chén gạo cho vào giữa lá, phía trên nếp lần lượt là đậu xanh và 1 miếng thịt ba chỉ. Tiếp theo lại cho một lớp đậu xanh phủ lên trên thịt và sau cùng là một lớp nếp. Bà con túm hai bên mép lá rồi xếp chặt tay, sau đó túm một phần đầu lá dong vuốt dẹp, gấp chặt và khít phần nhân bánh lại. Lúc này dựng bánh lên, vỗ để cho nhân được nén xuống rồi làm tương tự với đầu bên kia, gói sao cho phần giữa bánh gù, nhô lên là được.
Sau đó, dùng dây lạt quấn quanh bánh chưng, xoắn chặt dây để cố định bánh. Mỗi lần dùng được buộc khoảng 3 - 4 dây lạt.

Sau đó, dùng dây lạt quấn quanh bánh chưng, xoắn chặt dây để cố định bánh. Mỗi lần dùng được buộc khoảng 3 - 4 dây lạt.

Thiết kế chưa có tên.zip - 11.jpeg
Bánh sau khi được gói sẽ cho vào nồi lớn, đổ ngập nước, đậy nắp và luộc đều lửa cả một đêm. Củi đun cũng phải là củi chắc, thường xuyên châm thêm nước khi cạn để bánh được chín sẽ xanh và đẹp. Thường bà con sẽ gói bánh vào buổi chiều muộn sau giờ tan việc đồng ruộng và luộc bánh qua đêm. Sáng hôm sau sẽ có bánh bán. Vào lúc cao điểm, nhà bà Huế có khi thức cả đêm, thuê thêm 6 - 7 nhân công trong thôn cùng gói để có thể kịp hàng gửi cho khách.
Thiết kế chưa có tên.zip - 12.jpeg
Bánh chín, vớt ra để ráo nước. Khi thưởng thức, bánh mềm hạt gạo dền và có độ kết dính, nhân bánh ngậy vừa có mỡ vừa có nạc. Với bánh dài, bà con sẽ cắt thành khoanh, bánh gù thường được cắt làm đôi bằng cách tẽ đôi sống lưng lá dong.
Thiết kế chưa có tên.zip - 13.jpeg
Với hương vị đặc biệt, gắn liền với văn hóa truyền thống, lại mang đến thu nhập có người dân. Năm 2019, tôi được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao. Không chỉ xuất hiện trong mâm cỗ hay được bán đi nhiều tỉnh, thành phố, tại các cuộc hội thảo, trưng bày, giới thiệu nông sản địa phương, chúng tôi cũng được bà Huế đưa đi trưng bày. Ngoài nhà bà Huế, trong bản Mạ còn có nhà bà Thương hiện cũng thường xuyên gói bánh. Mỗi năm cả 2 hộ đều có nguồn thu ổn định, đồng thời tạo việc làm cho nhiều chị em trong thôn. Điều quan trọng việc chúng tôi được gói, được giới thiệu mỗi ngày góp phần gìn giữ và phát triển nghề gói bánh chưng truyền thống giữa nhịp sống hiện đại.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Giữ nghề làm thuốc nam của người Dao đỏ

Giữ nghề làm thuốc nam của người Dao đỏ

Cùng với sự phát triển vượt bậc của y học hiện đại, những bài thuốc nam gia truyền ở vùng núi cao Bát Xát vẫn đang được bảo tồn, phát triển để hỗ trợ người dân chăm sóc sức khỏe, giảm bớt bệnh tật, có đời sống hữu ích, vui vẻ hơn.

Người Tày Bản Liền giữ nghề truyền thống

Người Tày Bản Liền giữ nghề truyền thống

Không chỉ gìn giữ nghề truyền thống của cha ông mình, đồng bào Tày ở Bản Liền (Bắc Hà) vẫn đau đáu câu chuyện bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa trong đời sống hằng ngày. Đặc biệt, những năm gần đây, từ việc bà con người Tày giữ nghề truyền thống đã thu hút du khách đến với Bản Liền, thúc đẩy kinh tế du lịch địa phương phát triển…

Miệt mài đường thêu

Miệt mài đường thêu

Đồng bào dân tộc Dao đỏ ở Lào Cai có nghề thêu thổ cẩm với kỹ thuật tinh xảo. Từ đôi bàn tay khéo léo, phụ nữ Dao đỏ đã tạo ra những hoa văn độc đáo, làm nên những bộ trang phục truyền thống, không chỉ mang giá trị bản sắc văn hóa còn góp phần tạo sinh kế, phát triển du lịch cộng đồng tại địa phương.

[Ảnh] Nghề làm tranh cắt giấy của người Nùng ở Bản Sen

[Ảnh] Nghề làm tranh cắt giấy của người Nùng ở Bản Sen

Sản phẩm của nghề làm tranh cắt giấy “Chàng slaw” của dân tộc Nùng ở Bản Sen (huyện Mường Khương) là ngựa, cây tiền, nhà táng… được làm bằng giấy màu để cúng tiến cho người đã khuất, thể hiện ước muốn của người sống đối với người thân ở thế giới bên kia có cuộc sống no đủ, bình an.

Trăn trở giữ nghề truyền thống

Trăn trở giữ nghề truyền thống

Ở một góc nhỏ trong thôn người Nùng Dín ở xã Nấm Lư, huyện Mường Khương vẫn có đôi tay miệt mài, chăm chỉ cầm kim khâu và chỉ thêu, may vá mỗi ngày với trái tim yêu văn hóa truyền thống, đam mê nghề thủ công của dân tộc mình.

Nghề làm mã ở Bảo Hà

Nghề làm mã ở Bảo Hà

Cầm tinh tuổi Ngọ, như lời ông nói đó cũng là nhân duyên khi ông được coi là người đầu tiên đưa nghề làm mã về đất Bảo Hà. Năm nay đã gần 60 tuổi, ông Trần Văn Nghị ở bản Bảo Vinh, xã Bảo Hà (Bảo Yên) hào hứng nhớ lại câu chuyện của 24 năm về trước, ông khăn gói về Yên Bái học nghề đan và làm mã.

Những “nàng Bân” thời hiện đại

Những “nàng Bân” thời hiện đại

Một ngày cuối thu, tôi ghé thăm căn phòng ở tầng 3 căn hộ của Khu đô thị Bitexco (thành phố Lào Cai) nơi có hơn 20 thành viên của xưởng “Núi Rừng Handmade” đang miệt mài với công việc móc len. Nhìn ánh mắt chăm chú vào từng sợi len, kim móc, những đôi tay dẻo dai, thoăn thoắt khiến tôi nhớ đến câu chuyện về nàng Bân đan áo cho chồng.

Mùa cốm mới bên dòng Nậm Bắt

Mùa cốm mới bên dòng Nậm Bắt

Bằng bàn tay khéo léo, chăm chỉ, những phụ nữ Tày đã làm ra những “hạt ngọc xanh” đong đầy hương vị đất trời, đưa hạt cốm Hợp Thành trở thành sản phẩm OCOP 3 sao của thành phố Lào Cai.

Định hướng phát triển du lịch làng nghề

Định hướng phát triển du lịch làng nghề

Nghề thủ công ở Lào Cai xuất hiện từ rất sớm. Làng người Mông thường có một, hai hộ làm nghề rèn đúc, sửa chữa nông cụ, chạm khắc bạc, làm đồ trang sức. Làng người Tày lưu giữ nghề trồng bông dệt vải, bán vải chàm, vải bông ở các chợ vùng cao...

Trắng ngà sợi tơ Trà Chẩu

Trắng ngà sợi tơ Trà Chẩu

Mặc dù, bản sắc văn hóa truyền thống của không ít đồng bào dân tộc thiểu số đang đứng trước nguy cơ mai một, nhưng cộng đồng người Dao họ tại thôn Trà Chẩu, xã Sơn Hà, huyện Bảo Thắng vẫn gìn giữ, bảo tồn những giá trị của nghề dệt truyền thống.

[Ảnh] Phụ nữ Tày Hợp Thành giữ nghề làm cốm

[Ảnh] Phụ nữ Tày Hợp Thành giữ nghề làm cốm

Tháng 10 vào độ cuối Thu, đến thôn Cáng 1, cáng 2, xã Hợp Thành, thành phố Lào Cai, chúng tôi sẽ được hòa mình vào bầu không khí náo nức, rộn ràng của mùa cốm mới. Những phụ nữ Tày với đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, chịu khó ra đồng cắt lúa nếp về làm thành những hạt cốm dẻo thơm, mềm ngọt, đậm đà hương vị đồng quê.

Những chiếc mâm mây và đôi tay tài hoa

Những chiếc mâm mây và đôi tay tài hoa

Đến “xứ mưa” Y Tý (huyện Bát Xát) hỏi thăm nhà ông Ly Giờ Lúy giỏi nghề đan mâm mây, từ người già đến trẻ nhỏ ai cũng biết. Trong câu chuyện với người đường xa, họ còn không quên tấm tắc: Mâm mây của già Lúy đan đẹp lắm. Không chỉ đan cho nhà dùng, già còn làm bán cho bà con và khách du lịch nữa đấy!

Gặp nghệ nhân chế tác tính tẩu

Gặp nghệ nhân chế tác tính tẩu

Cây đàn tính (tính tẩu) là một phần văn hóa sinh động, đậm đà bản sắc của cộng đồng người Tày các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc. Tại Lào Cai, những thay đổi trong đời sống hiện đại, sự chuyển dịch trong lòng văn hóa truyền thống khiến ngày càng ít người biết, lưu giữ nghề làm đàn tính hoặc làm đàn có chất lượng, làm đàn đẹp, âm sắc tốt.

Trăm năm kể chuyện nghề rèn

Trăm năm kể chuyện nghề rèn

“Cạch! Cạch!” - tiếng búa đập vào thanh sắt phát ra từ một lò rèn nhỏ nằm cuối thôn Bản Phố 2C (xã Bản Phố, huyện Bắc Hà) khiến chúng tôi mường tượng về một thời hoàng kim của làng rèn Bản Phố. Dù thăng trầm của thời cuộc khiến nghề rèn dần mai một nhưng ở Bản Phố vẫn còn đó những người bám trụ với nghề, bằng cách riêng miệt mài truyền dạy cho thế hệ tương lai. Họ giữ gìn “kho tàng” câu chuyện cũng như kỹ thuật đúc rèn tồn tại cả trăm năm ở vùng cao nguyên trắng.

fb yt zl tw