Quay về E-magazine Theo dõi Báo Lào Cai trên Google News

Trăm năm kể chuyện nghề rèn

Trăm năm_20240813_082753_0000.jpg
“Cạch! Cạch!” - tiếng búa đập vào thanh sắt phát ra từ một lò rèn nhỏ nằm c_20240821_124532_0000.jpg
Tiêu đề_20240821_095236_0000.jpg

Trong căn nhà nhỏ ngái nồng mùi khói bếp, ông Sùng Seo Nhà (74 tuổi) một trong những cao niên còn bám trụ với nghề rèn nở nụ cười móm mém đón chúng tôi ghé thăm trong một buổi chiều lất phất mưa. Giọng kể bằng tiếng phổ thông lơ lớ vẫn đủ để chúng tôi hiểu nghề rèn đến với Bản Phố “duyên nợ” như thế nào và ai là người đầu tiên có công đưa nghề rèn về với bản làng.

1_20240821_103707_0000.jpg

Theo lời kể của ông Sùng Seo Nhà và một số cao niên trong thôn thì hiện tại không có tài liệu hay thông tin ghi chép về người đầu tiên làm nghề rèn đúc ở Bản Phố mà người Mông truyền tai nhau rằng “ông tổ” nghề rèn của địa phương chính là cụ Sùng Seo Sào - ông nội của ông Sùng Seo Nhà.

Chuyện kể rằng ngày xưa Bản Phố còn nghèo, người dân trong thôn quanh năm cặm cụi trên nương mà vẫn không đủ ăn. Những người đàn ông chí lớn loay hoay tìm cách làm giàu mà cứ mãi trong vòng luẩn quẩn nghèo nàn, lạc hậu. Trong một lần ra chợ huyện, cụ Sùng Seo Sào thấy quầy bán nông cụ của người Hoa khách ra vào nườm nượp. Lân la hỏi chuyện, cụ biết những nông cụ dao, cuốc, lưỡi cày là do họ tự rèn nên bày tỏ mong muốn được học nghề. Chi phí dạy nghề là một con trâu và người Hoa cũng cam kết thành nghề họ mới nhận công. Ngày đó một con trâu giá trị lắm, gia đình có duy nhất con trâu để cày nương nhưng cụ Sào vẫn quyết tâm học bởi nếu thành nghề có thể mua thêm được vài con trâu như thế.

2_20240821_103707_0001.jpg

Chăm chỉ học nghề, chỗ nào không hiểu cụ hỏi đi hỏi lại, nhất là những bí mật gia truyền mà người Hoa nắm giữ, chẳng bao lâu cụ Sào đã có thể rèn được con dao, cái cuốc chất lượng thậm chí còn hơn người Hoa làm. Biết cụ Sào rèn nông cụ chất lượng, người trong thôn, trong xã và các địa phương lân cận đều muốn mua sản phẩm do chính tay cụ Sào rèn. Lò rèn tối ngày đỏ lửa, sản phẩm làm ra không đủ bán, lại thêm nhiều người muốn cụ truyền nghề, cụ Sào tận tình chỉ bảo. Chỉ trong một thời gian ngắn, xã Bản Phố đã phát triển hơn 10 lò rèn. Từ việc phải mua nông cụ của người Hoa giờ họ đã tự sản xuất và sản phẩm có thương hiệu vững chắc trên thị trường. Nông cụ do các lò rèn ở Bản Phố được đánh giá chất lượng tốt, có tính thẩm mỹ cao, dùng đến mòn vẹt mà vẫn sắc lẹm.

Tiêu đề_20240821_095540_0000.jpg

Ông Sùng Seo Nhà chia sẻ 12 tuổi đã được bố truyền nghề, ông và những người đàn ông dân tộc Mông ở Bản Phố khẳng định bí quyết để làm ra những con dao, lưỡi cuốc, lưỡi cày sắc ngọt và có độ bền cao, đầu tiên phải lựa chọn được loại thép tốt. Bên cạnh đó, kỹ thuật tôi thép cũng rất quan trọng, thép nung phải đủ độ nóng, không non quá cũng không được quá già lửa. Kỹ thuật này quyết định độ bền của sản phẩm.

Tiêu đề_20240821_123611_0000.jpg

Nghề rèn đòi hỏi người thợ phải có sức khỏe, sự khéo léo, cũng như sự kiên trì và sáng tạo mới có thể cho ra lò những sản phẩm tinh xảo vừa có giá trị làm vật dụng vừa thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống độc đáo riêng của dân tộc Mông.

Người thợ cả và thợ phụ phải có sự phối hợp nhịp nhàng, lực búa giáng xuống thanh thép phải đều nhau, độ mạnh yếu biến hóa với từng phần của sản phẩm. Than đốt lò để rèn cũng rất đặc biệt. Xưa người Mông không dùng than đá mà dùng than củi của loại gỗ chắc thường là sến đỏ, dổi. Trong khi rèn nhiệt độ lò rèn phải nóng đều mới cho ra sản phẩm tốt nên yêu cầu người quay bễ phải đều tay.

Bàn tay khéo léo_20240821_105224_0000.jpg
Đôi bàn tay khéo léo, bền bỉ của người thợ rèn làm ra những nông cụ sắc bén.

Lò rèn của người Mông Bản Phố không cầu kỳ, chỉ có một ụ đất làm lò, vài cục sắt to làm đe và một cái bễ. Cái bễ là quan trọng nhất. Nó cấu tạo như một cái bơm xe đạp khổng lồ nằm ngang. Cái bơm ấy được khoét ra từ thân cây đường kính khoảng 50 cm. Pít tông là một miếng gỗ tròn như cái thớt được gắn lông gà chung quanh để dễ dàng tịnh tiến trong lòng cây gỗ, người thợ đẩy pít tông, rất nhẹ nhàng và không tốn sức.

Nhưng có lẽ công phu hơn cả là kỹ thuật đúc lưỡi cày. Lưỡi cày của người Mông Bản Phố được rèn đúc khác biệt để phù hợp với địa hình nương đồi nhiều đất đá nên khuôn đúc cũng khác biệt. Khuôn lưỡi cày được làm từ đất sét trắng lấy từ Bản Liền về rây mịn, sau đó nhào với nước tạo hình rồi đem nung ở nhiệt độ phù hợp. Mỗi khuôn đúc lưỡi cày nặng khoảng 60 kg. Phôi gang nóng chảy được đổ vào khuôn sẽ thu được lưỡi cày có độ cong, mũi nhọn đặc trưng.

Ngoài ra, thợ rèn người Mông Bản Phố còn nắm nhiều bí quyết mài nước, kỹ thuật thổi gang, nung thép tinh xảo mà máy móc khó có thể thay thế. Kỹ thuật đúc rèn công phu đã tạo ra những sản phẩm chất lượng, bền bỉ với thời gian.

Tiêu đề_20240821_095540_0001.jpg

Nhấp chén trà đặc, ánh mắt của ông Sùng Seo Nhà và anh Ma Seo Chùa - những “truyền nhân” hiếm hoi của nghề rèn Bản Phố đượm buồn. Thời hoàng kim nhất của nghề rèn Bản Phố có lẽ là khoảng đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Nền kinh tế bước vào giai đoạn đổi mới, ruộng nương được chia cho các hộ dân nên nhu cầu nông cụ lớn. Những lò rèn cả ngày rực lửa mà không đủ bán. Ông Nhà mỗi ngày có thể làm được 20 lưỡi cày, 10 con dao, làm ra đến đâu bán hết đến đấy. Nghề rèn đem lại cho gia đình ông Nhà thu nhập ổn định.

Bàn tay khéo léo_20240821_111708_0000.jpg
Những "truyền nhân" của nghề rèn.

Còn anh Ma Seo Chùa cũng nhớ lại năm 14 - 15 tuổi là lao động chính trong lò rèn của bố anh. Được bố truyền nghề, anh có thể tự tay đúc được con dao, cái búa, lưỡi cày sắc lẹm. Lò rèn của gia đình anh cũng nức tiếng khắp vùng với những sản phẩm chất lượng.

Thế rồi cơn bão thị trường quét qua đã trực tiếp ảnh hưởng đến các lò rèn ở Bản Phố. Công nghệ hiện đại, mẫu mã đa dạng, giá cả phải chăng của những nông cụ được sản xuất hàng loạt cạnh tranh với nông cụ được sản xuất theo phương thức thủ công. Cuộc chiến giành thị phần khiến nông cụ của người Mông Bản Phố dần mất vị thế. Nhưng chất lượng của các nông cụ sản xuất thủ công thì không thể phủ nhận được.

Tiêu đề_20240821_123611_0001.jpg

Ít khách mua nông cụ nhưng ông Sùng Seo Nhà vẫn duy trì lò rèn, mỗi ngày chỉ làm 5 - 7 sản phẩm theo đơn đặt hàng. Ông cũng đã truyền nghề được cho con trai Sùng Seo Của khi bản thân tuổi đã cao. Hiện tại ở Bản Phố vẫn còn nhiều nam giới biết kỹ thuật rèn đúc do ông cha truyền dạy nhưng vì cuộc sống mưu sinh mà họ không thể bám trụ được với nghề để lại sự tiếc nuối về một thời hoàng kim của nghề rèn truyền thống địa phương.

Nghề rèn của người Mông Bản Phố không chỉ tạo ra những nông cụ phục vụ sản xuất mà còn góp phần quan trọng duy trì nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Những “truyền nhân” của nghề rèn như ông Sùng Seo Nhà, anh Ma Seo Chùa luôn hy vọng nghề truyền thống địa phương được khôi phục, bảo tồn và phát huy để làm sống dậy những lò rèn ở Bản Phố, lại xuất hiện những triệu phú, tỷ phú từ nghề rèn.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Độc đáo nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường

Nghệ thuật tạo hoa văn cạp váy của người Mường tỉnh Hoà Bình (cũ), nay là tỉnh Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây là sự tôn vinh, ghi nhận và là niềm tự hào của người Mường, động lực để đồng bào tiếp tục giữ gìn và phát huy giá trị di sản.

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Giấy bản – mạch nối ký ức vùng cao

Ẩn mình giữa núi rừng vùng cao, những tấm giấy bản mỏng nhẹ nhưng dai bền vẫn lặng lẽ gìn giữ kho tàng tri thức dân gian của đồng bào dân tộc thiểu số. Giấy bản không chỉ là chất liệu, mà còn là minh chứng sống động cho một nghề thủ công giản dị, âm thầm bền bỉ trước sự bào mòn của thời gian.

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Phụ nữ dân tộc Mông với nghề dệt lanh truyền thống

Giữa lòng Cao nguyên đá hùng vĩ có một câu chuyện về văn hóa bản địa và hành trình vươn lên mạnh mẽ của những người phụ nữ dân tộc Mông. Từ sợi lanh truyền thống, họ đã và đang bền bỉ dệt nên sự bình đẳng, nâng tầm vị thế của mình trong cộng đồng.

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

[Ảnh] Phụ nữ vùng cao giữ nghề truyền thống

Những tri thức dân gian làm nghề truyền thống của các dân tộc vùng cao Lào Cai đã có từ ngàn đời nay. Trong nhịp sống hiện đại, những tri thức ấy vẫn được đồng bào gìn giữ và lưu truyền, tạo nên nét đẹp độc đáo của mỗi dân tộc. 

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

[Ảnh] Đồng bào các dân tộc vùng cao Bát Xát giữ nghề đan lát

Huyện Bát Xát có 23 nhóm, ngành dân tộc với bản sắc văn hóa phong phú. Trải qua nhiều thế hệ, các dân tộc trên vùng cao Bát Xát đã sáng tạo và lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống, trong đó có nghề đan lát. Từ đôi bàn tay khéo léo và sự chăm chỉ, cần mẫn, các nghệ nhân ở thôn, bản đã sáng tạo nhiều sản phẩm thủ công đan lát phục vụ đời sống hằng ngày và nhu cầu của cộng đồng.

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Giữ nghề nơi bản nhỏ

Sinh ra và lớn lên trong cái nôi văn hóa Tày, bà Nguyễn Thị San, ở bản Nà Khương là một trong số ít người ở xã Nghĩa Đô, huyện Bảo Yên còn am hiểu và gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Bà đã và đang nỗ lực truyền dạy lại cho lớp trẻ, vừa để giữ gìn văn hóa truyền thống, vừa phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Lão nông Hà Nhì 30 năm giữ nghề đan mâm

Từ những thanh gỗ pơ mu cũ kỹ bị vùi trong lớp đất mục tưởng như bỏ đi hoặc chỉ dùng vào việc chẻ ra nhóm bếp, ông Chu Xe Gió, người Hà Nhì, xã Nậm Pung (Bát xát) có thể tách ra thành những chiếc nan mỏng như tấm bìa giấy để đan mâm theo kỹ thuật truyền thống của dân tộc Hà Nhì. Điều đáng nói, ông Chu Xe Gió là truyền nhân duy nhất của xã Nậm Pung có thể đan mâm bằng nan gỗ pơ mu trong khi một số người khác chỉ đan được bằng nan tre quen thuộc.

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sức sống di sản nghề cói Kim Sơn

Sau khi được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nghề cói Kim Sơn (Ninh Bình) đã có bước phát triển rõ rệt. Người dân hưởng lợi trực tiếp từ việc tăng giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường và phát triển du lịch làng nghề.

[Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Tinh hoa nghề gốm Bát Tràng

Theo Đại Việt sử ký toàn thư và Dư địa chí của Nguyễn Trãi, làng gốm Bát Tràng được hình thành từ thời nhà Lý, vào khoảng thời gian vua Lý Thái Tổ dời đô từ Thăng Long ra Hoa Lư. Các sản phẩm gốm Bát Tràng đã phát triển, lưu thông rộng rãi trong nước từ thế kỷ XV, đến thế kỉ XVI, XVII phát triển mạnh mẽ và xuất khẩu ra nước ngoài. Trải qua thăng trầm của lịch sử, làng gốm Bát Tràng vẫn luôn giữ được nét đẹp truyền thống, tự hào là làng nghề gốm sứ lâu đời và nổi tiếng nhất của cả nước.

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Hoa văn phượng hoàng trên trang phục của người Nùng Dín

Một trong những đặc điểm nhận diện rõ nhất trong trang phục truyền thống của người Nùng Dín ở huyện vùng cao Mường Khương chính là vẻ đẹp tinh tế và đầy màu sắc của hoa văn phượng hoàng thêu trên váy áo, khăn đội đầu, giày vải, địu và mũ của trẻ em…

[Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Làng Vị Khê - nơi trồng cây cảnh nổi tiếng nhất Nam Định

Đến làng cây cảnh Vị Khê (xã Điền Xá, nay là xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), nhiều người không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân chăm sóc những cây cảnh tiền tỷ. Đặc biệt, làng cây cảnh này đã có lịch sử tồn tại gần 1.000 năm.

[Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Hành trình dọc sông Hồng: [Ảnh] Đến Hà Nam thăm làng nghề trống Đọi Tam

Làng nghề trống Đọi Tam ở xã Tiên Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam là làng nghề có lịch sử phát triển hơn 1.000 năm và là làng nghề nổi tiếng với sản phẩm trống truyền thống. Ngoài việc giữ gìn những giá trị văn hóa độc đáo, làng nghề còn linh hoạt đổi mới để đáp ứng nhu cầu thị trường, từ đó tạo ra nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho người tiêu dùng.

Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Sông Hồng – Hành trình di sản Bài 4: Độc đáo những làng nghề bên dòng sông mẹ

Cùng với những di tích khảo cổ, những lịch sử - văn hóa mang nhiều giá trị bên sông Hồng, đi đến những vùng đất nơi sông Hồng chảy qua, chúng tôi còn được tham quan, trải nghiệm không gian văn hóa của nhiều làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm tuổi ven sông Hồng, tạo nên nét đặc trưng của nền văn minh lúa nước của cư dân người Việt.

fb yt zl tw