Không khí thảo luận, góp ý vào dự thảo văn kiện diễn ra sôi nổi, trách nhiệm và đầy tâm huyết, là minh chứng thể hiện sâu sắc “ý Đảng, lòng dân” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ hưởng”, để khơi dậy và huy động tối đa trí tuệ, ý chí của toàn thể Nhân dân vào công cuộc định hướng phát triển đất nước trong “kỷ nguyên vươn mình” của dân tộc.
Với vai trò là trung tâm nghiên cứu khoa học chính trị, xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, trong bài viết này, Học viện Chính trị Công an nhân dân tập trung nêu một số ý kiến đóng góp vào 05 quan điểm chỉ đạo trong dự thảo văn kiện.
Kế thừa thành tựu lý luận từ văn kiện các kỳ đại hội trước đây, trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng đã trình bày hệ thống quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc chứa đựng những nội dung mới về nhận thức lý luận làm nền tảng có ý nghĩa xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, khái quát là:
(1) Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; lý luận về đường lối đổi mới; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội…;
(2) Nhận diện sớm, tranh thủ mọi thuận lợi, thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước…;
(3) Khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc…
(4) Phát huy sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ của con người Việt Nam, khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thế trận lòng dân…;
(5) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện… Có thể khẳng định, các quan điểm chỉ đạo được nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng cơ bản hoàn chỉnh, thể hiện tính khái quát cao và tầm cao lý luận, phản ánh đầy đủ, toàn diện trên những vấn đề lớn của đất nước.
Trong quan điểm chỉ đạo thứ nhất, lần đầu tiên Đảng ta xác định “lý luận về đường lối đổi mới” là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây là bước phát triển có ý nghĩa lịch sử, thể hiện sự trưởng thành về tư duy lý luận, năng lực tổng kết thực tiễn và bản lĩnh tự đổi mới của Đảng; cho thấy Đảng không giáo điều, không rập khuôn, mà luôn kế thừa, bổ sung và phát triển sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn, làm giàu thêm kho tàng lý luận - tư tưởng của cách mạng Việt Nam.
Cùng với việc tiếp tục khẳng định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường duy nhất đúng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Bất luận trong hoàn cảnh nào, khó khăn phức tạp đến đâu, chúng ta cũng không xa rời mục tiêu đó, con đường đó, quan điểm mang tính nguyên tắc chiến lược này thể hiện rõ sự kiên định, không xao nhãng, chệch hướng trong tư tưởng và hành động. Đây cũng là bài học rút ra từ sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, khi Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản một số nước đánh mất vai trò lãnh đạo.
Để bảo đảm toàn diện hơn, đề nghị nghiên cứu, bổ sung từ “bảo vệ” sau từ “Kiên định”, chỉnh lý thành: “Kiên định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…”.
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới cho thấy, bên cạnh yêu cầu giữ vững, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì “bảo vệ” chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước những âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là yêu cầu cấp thiết, thường xuyên nhất là trong bối cảnh tình hình hiện nay.
Trong quan điểm chỉ đạo thứ hai, có sự bổ sung “bảo vệ môi trường” là trung tâm cùng với phát triển kinh tế, xã hội đã được xác định trong các kỳ đại hội trước đó. Điểm bổ sung này rất hợp lý, bởi vấn đề bảo vệ môi trường ngày càng trở nên quan trọng, cấp thiết, mang tính toàn cầu, nhiệm vụ chung của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam và chúng ta không thể đứng ngoài cuộc. Cũng trong quan điểm chỉ đạo này, Dự thảo Báo cáo chính trị khẳng định: “... tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên”.
Đây là nội dung thể hiện đột phá, tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng ta được thể hiện ở chỗ lần đầu tiên xác định “đối ngoại, hội nhập quốc tế” đặt ngang hàng với quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Với việc xác định vị trí, vai trò của “đối ngoại, hội nhập quốc tế” là “trọng yếu, thường xuyên” đã mở ra một khung chiến lược toàn diện hơn trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh chủ động hội nhập ngày càng sâu rộng và cạnh tranh địa chính trị, kinh tế toàn cầu, khu vực ngày càng gay gắt.
Tuy nhiên, để bảo đảm toàn diện, khoa học, chặt chẽ hơn, kế thừa, tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia cần thiết bổ sung cụm từ: “chuyển đổi số quốc gia” sau cụm từ: “… đẩy mạnh đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế” thành “… đẩy mạnh đột phá về khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng cường chủ động hội nhập quốc tế…”.
Tại quan điểm chỉ đạo thứ ba, cụ thể hóa chủ đề của Báo cáo chính trị, Đảng ta khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, khát vọng phát triển, tinh thần đoàn kết, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc;…”.
Thực tiễn cách mạng đã chứng minh, bất kỳ khi nào dân tộc ta khơi dậy và phát huy được sức mạnh đoàn kết thì khi đó đất nước vượt qua thử thách, giành thắng lợi vẻ vang. Trong kỷ nguyên mới, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc càng có ý nghĩa chiến lược, là điều kiện tiên quyết để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững, phấn đấu đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, cả dân tộc, toàn Đảng, toàn quân, cả hệ thống chính trị phải chung sức, đồng lòng với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, dựa vào sức mạnh nội sinh là chính, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài và phải phát huy cao độ khát vọng, tinh thần, ý chí tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, cần phải được quán triệt xuyên suốt trong tất cả các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, các lĩnh vực, đặc biệt là tự chủ chiến lược trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Trong quan điểm chỉ đạo thứ tư, cân nhắc bổ sung cụm từ: “bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa” trước đoạn “chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia…” để bảo đảm thống nhất, lôgic với nội dung đoạn thứ nhất, mục X.
Tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Điều này có nghĩa trên hết, trước hết cần đặt “bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa” dưới khía cạnh chính trị, xã hội (bảo vệ bên trong) cùng với “chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia…” dưới khía cạnh lịch sử, tự nhiên, lãnh thổ (bảo vệ trước các yếu tố bên ngoài tác động vào).
Trong quan điểm thứ năm, đề nghị cân nhắc bổ sung từ “quan liêu” sau cụm từ “tham nhũng, lãng phí, tiêu cực…” thành “… phòng, chống, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu…”. Lịch sử các quốc gia trên thế giới và Việt Nam đều cho thấy, bên cạnh các hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực thì “bệnh” quan liêu, hành vi quan liêu cũng gây tổn hại nghiêm trọng tới chế độ chính trị, niềm tin của Nhân dân với Nhà nước, tới hoạt động bình thường, lành mạnh của các cơ quan, tổ chức trong bộ máy. Ở một số quốc gia, khi quan liêu và tham nhũng trở nên trầm trọng đã làm cho bộ máy nhà nước và các tổ chức xã hội rệu rã, mục nát, tê liệt, dẫn đến nguy cơ tồn vong của chế độ.