
Theo các chuyên gia, hiện trạng đất nông nghiệp ngày một xấu đi, ảnh hưởng tới sản xuất, chất lượng nông sản. Đất xấu bắt nguồn từ việc dùng vô tội vạ thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Do vậy để giảm hóa chất cho đất, cũng như tăng sức khỏe cho đất nông nghiệp cần phải ưu tiên sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, kế đến là kết hợp hài hòa thuốc BVTV hóa học và sinh học.
Số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, mỗi năm ở Việt Nam có hơn 150 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp bị bỏ phí. Cụ thể, khoảng 90 triệu tấn phụ phẩm sau thu hoạch từ cây trồng, từ quá trình chế biến nông sản của ngành trồng trọt; 62 triệu tấn phân gia súc, gia cầm từ ngành chăn nuôi; 6 triệu tấn từ ngành lâm nghiệp; gần 1 triệu tấn từ ngành thủy sản. Hằng năm phần sinh khối phụ phẩm từ lúa, ngô, mía, rau các loại có thể cung cấp khoảng 43 triệu tấn hữu cơ; 1,8 triệu tấn đạm urê; 1,6 triệu tấn supe lân; 2,2 triệu tấn kali…
Đây được coi là con số khổng lồ để bù đắp lại dinh dưỡng trong đất và sử dụng cho cây trồng trong canh tác nông nghiệp. Còn trong ngành chăn nuôi mới chỉ tận dụng được 23% chất thải để sản xuất phân bón hữu cơ, còn lại đang bị bỏ phí. Ước tính lượng chất thải chăn nuôi có xu hướng tăng dần theo các năm: 62 triệu tấn (2022), 68,15 triệu tấn (2025) và 71,92 triệu tấn (2030).
Giới chuyên gia môi trường nhận định, đối với nền kinh tế nông nghiệp tuần hoàn gắn với tăng trưởng xanh, thì phụ phẩm trong nông, lâm, thuỷ sản phải được xem là nguồn tài nguyên tái tạo chứ không phải là chất thải. Các loại phụ phẩm trong nông nghiệp đều có nguồn gốc hữu cơ và khả năng tái sử dụng vào các mục đích phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nguồn nguyên liệu này cần được xem là đầu vào quan trọng, kéo dài chuỗi giá trị gia tăng trong nông nghiệp. Thậm chí, nhiều chuyên gia còn coi phụ phẩm nông nghiệp là “mỏ vàng” của ngành nông nghiệp.
Theo nghiên cứu của Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), hàng năm Việt Nam phát sinh khoảng 93,6 triệu tấn phụ phẩm từ trồng trọt nhưng chỉ hơn 52% trong số đó được thu gom và sử dụng. Trong khi đó, các loại phụ phẩm này có thể trở thành nguyên liệu lý tưởng để sản xuất than sinh học. Sản phẩm than sinh học sản có cấu trúc xốp, giàu carbon, có khả năng cải thiện tính chất đất, giữ nước, tăng khả năng trao đổi dinh dưỡng và đặc biệt là cô lập carbon khỏi khí quyển trong hàng trăm năm.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam cho biết, việc sử dụng, chế biến phế, phụ phẩm nông nghiệp hiện nay dù đạt được kết quả nhất định song vẫn chưa đồng bộ, hiệu quả, gây lãng phí lớn.
Còn đại diện Vụ Hợp tác quốc tế (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, hiện vẫn thiếu những quy định về tiêu chuẩn hóa và kiểm soát chất lượng sản phẩm than sinh học, thiếu sự hợp tác giữa các bên liên quan và công nghệ nhiệt phân chưa được công nhận như một công nghệ xanh, gây cản trở việc ứng dụng rộng rãi.
Về vấn đề này, PGS.TS Bùi Thị An - Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng cho rằng, phế, phụ phẩm nông nghiệp là nguồn tài nguyên cực lớn của Việt Nam. Hầu hết chúng đều có thể tái chế thành nguồn nguyên liệu cho các hoạt động sản xuất khác, tạo thành quy trình tuần hoàn trong nông nghiệp. Theo bà An, vấn đề khai thác phế phụ phẩm nông nghiệp không chỉ dựa vào người nông dân mà yếu tố cốt yếu là nhà quản lý. Làm sao để người dân nhìn thấy tín hiệu tích cực, khả quan từ việc tái chế, sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp, đó là vai trò của nhà quản lý.