Dân ca của người M'nông ở Đắk Nông - Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia

Nội dung cơ bản của dân ca M’nông (còn gọi là Nau M’pring) thường đề cập đến sự hình thành của vũ trụ, con người và xã hội; ngôn ngữ rất gần với lời nói hằng ngày. 

Dân ca của người M’nông ở Đắk Nông (còn gọi là Nau M’pring) là Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia.

Dân ca của người M’nông ở Đắk Nông (còn gọi là Nau M’pring) là hình thức diễn xướng dân gian (không có nhạc đệm) được người M’nông sáng tác, sản sinh từ lao động sản xuất, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được cộng đồng coi là tài sản chung của tộc người.

Nau M’Pring của người M’nông được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia theo Quyết định số 2743/QĐ-BVHTTDL ngày 30/9/2020.

Theo Cục Di sản Văn hóa, dân ca M’nông gồm hai thành phần cơ bản là âm nhạc giữ chức năng nhịp điệu, tiết tấu; lời ca thể hiện nội dung, gắn bó với nhau và hỗ trợ cho nhau.

Những bài hát dân ca là lời ăn tiếng nói thường ngày được nghệ thuật hóa, khái quát hóa mang sắc thái dân tộc, địa phương tạo sự phong phú về giai điệu, tiết tấu và tô đậm bản sắc dân tộc trong dân ca của người M’nông. Xét về thang âm, dân ca M’nông có đủ các thể từ thang 3 bậc âm, 5 bậc âm, 6 bậc âm và 7 bậc âm. Tuy nhiên, người M’nông dùng chủ yếu là thang 5 âm (có hoặc không có bán âm).

Ngôn ngữ của dân ca M’nông rất gần với lời nói hằng ngày.

Nội dung cơ bản của dân ca M’nông thường đề cập đến sự hình thành của vũ trụ, con người và xã hội; ngôn ngữ rất gần với lời nói hằng ngày. Phương pháp sử dụng tục ngữ và thành ngữ được vận dụng một cách sáng tạo để khắc họa tính cách của nhân vật và sự việc.

Ngoài ra, Dân ca M’nông là thể loại giàu chất trữ tình, những câu hát có hình ảnh, nhịp điệu, có vần điệu… Chủ đề của lời hát còn được dùng trong các nghi lễ và những điệu hát khấn thần. Chính nhờ hình thức này mà dân tộc M’nông đã dựng nên những pho sử thi rất hoành tráng, có dung lượng dài đến hàng nghìn câu.

Những bài hát dân ca của người M'nông được phân thành nhiều thể loại như các bài hát ru con, các khúc hát ngắn tả các con vật, khúc hát của các chúa tể thời xa xưa, những bài hát minh họa một sự kiện nào đó thường rất gần… nhưng quan trọng nhất là các bài hát về tình yêu.

Dựa vào nội dung của các bài hát dân ca M’nông, có thể phân loại theo hai nhóm: hình thức diễn xướng và hình thức nghi thức.

Ngoài việc phân loại dân ca dựa vào nội dung bài hát, dân ca M’nông có thể chia thành các thể loại như: dân ca gắn với lao động sản xuất, phong tục tập quán, sinh hoạt và nghi lễ tín ngưỡng.

Không gian diễn xướng của dân ca M’nông rất rộng, bao trùm toàn bộ môi trường sinh sống của người M’nông. Sau các nghi lễ trang trọng, người ta quây quần bên các ghè rượu thưởng thức những đồ ăn, thức uống mang linh khí của các thần bảo mệnh, rồi thả hồn vào những bài hát dân ca, ca ngợi quê hương, làng bản.

Hình thức hát dân ca tương đối tự do, thoải mái, không bị câu thức bởi lễ nghi, phép tắc diễn xướng. Người nghệ nhân bằng giọng hát của mình, đặt chỗ lấy hơi, chọn nơi thêm luyến láy, từ phụ, hư từ làm cho lời hát sinh động. Giọng, điệu, lời hát, cách sử dụng ngữ điệu, ngữ khí, sắc thái là những phương tiện cơ bản của diễn xướng mà nghệ nhân hát dân ca cần có để có thể diễn xướng được những bài dân ca M’nông.

Dân ca M’nông góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khích lệ quá trình lao động và sinh hoạt cộng đồng.

Dân ca của dân tộc M’nông mang đậm giá trị lịch sử, văn hóa, gắn liền với sự hình thành và phát triển của cộng đồng người M’nông. Dân ca M’nông để giao tiếp giữa con người với thế giới siêu nhiên, hát về tình yêu đôi lứa, ca ngợi những chàng trai anh dũng chống lại cái ác để bảo vệ buôn làng, thiên nhiên tươi đẹp.

Dân ca M’nông góp phần làm phong phú đời sống tinh thần, khích lệ quá trình lao động và sinh hoạt cộng đồng. Dân ca M’nông bảo vệ và trao truyền các tri thức về tự nhiên, xã hội và con người như: các hiện tượng nắng, mưa, gió, bão, sấm sét, đêm ngày, núi rừng, sông suối, ao hồ, đầm lầy, trời đất...; ứng xử với tự nhiên trong lao động sản xuất, săn bắt, hái lượm...; ứng xử giữa con người với nhau; về văn hóa vật chất (ăn, mặc, ở…) và văn hóa tinh thần (nghi lễ, lễ hội, phong tục, tập quán...)…

Dân ca M’nông góp phần cố kết cộng đồng, giáo dục các thế hệ về ý thức cội nguồn dân tộc, bản sắc tộc người, đạo đức trong gia đình và trong cộng đồng, tình yêu đôi lứa, trao truyền kinh nghiệm lao động sản xuất… để truyền dạy cho thế hệ sau.

VietnamPlus

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Ngày hội văn hóa tôn vinh tinh hoa sáng tạo Việt

Ngày hội văn hóa tôn vinh tinh hoa sáng tạo Việt

Ngày hội Văn hóa trò chơi và quà tặng Việt Nam 2025 với chủ đề “Tinh hoa sáng tạo Việt” diễn ra trong hai ngày 13 - 14/9, tại Đường sách thành phố Hồ Chí Minh, đã mang đến một không gian sáng tạo sôi động, nơi cộng đồng nghệ nhân, doanh nghiệp và công chúng cùng lan tỏa giá trị văn hóa Việt.

Điệu múa Then trong trái tim người Tày

Điệu múa Then trong trái tim người Tày

Bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống là cách để nhiều cộng đồng dân tộc gìn giữ cội nguồn, nuôi dưỡng bản sắc trong đời sống hiện đại. Với đồng bào Tày ở xã Văn Chấn, điệu múa Then, tiếng đàn tính, nét đặc sắc văn hóa truyền thống vốn gắn bó với ký ức của cha ông được hồi sinh, gìn giữ trong sinh hoạt của Câu lạc bộ múa Then Tày thôn Thác Vác. Từ những điệu múa ấy, tình yêu văn hóa Tày ngày càng được lan tỏa, hun đúc niềm tự hào, gắn kết cộng đồng.

Khi điện ảnh trở thành bài học lịch sử sống động cho thế hệ trẻ

Khi điện ảnh trở thành bài học lịch sử sống động cho thế hệ trẻ

Trong nỗ lực đổi mới phương pháp giáo dục, nhiều trường học đã tìm đến điện ảnh như một kênh trực quan giúp học sinh tiếp cận lịch sử. Qua hình ảnh, âm thanh và câu chuyện từ quá khứ, các em không chỉ tiếp thu kiến thức mà còn nuôi dưỡng tình yêu quê hương, ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.

Gia đình Haha - Vì một Việt Nam hạnh phúc

Gia đình Haha - Vì một Việt Nam hạnh phúc

Sáng 13/9, UBND xã Bản Liền phối hợp với Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức chương trình “Du lịch trải nghiệm và hoạt động thiện nguyện trồng tre Lục Trúc, dẻ Trùng Khánh” trong khuôn khổ chương trình thiện nguyện xã hội “Gia đình Haha – Vì một Việt Nam hạnh phúc”.

Luồng sinh khí mới của phim chiến tranh cách mạng

Luồng sinh khí mới của phim chiến tranh cách mạng

Phim đề tài chiến tranh là một phần đặc biệt quan trọng trong di sản điện ảnh cách mạng Việt Nam, đã chứng minh được giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật với thời gian, cũng như những đóng góp tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai bên chiến tuyến, từ đó hàn gắn vết thương chiến tranh, tăng cường hợp tác hữu nghị.

Tìm lại ký ức xưa qua đồ chơi truyền thống

Tìm lại ký ức xưa qua đồ chơi truyền thống

Giá trị truyền thống trong những món đồ chơi Trung thu cổ truyền tưởng chừng bị lãng quên trong thời gian dài, nay bỗng trở lại và được nhiều người đón nhận. Những ngày gần tới Rằm Trung thu, trên khắp phố phường Hà Nội, đặc biệt là tại khu phố cổ, nhiều cửa hàng bắt đầu trưng bày đồ chơi trung thu với sắc màu rực rỡ, đủ loại đồ chơi truyền thống, dệt nên mùa trăng rằm vừa hoài niệm, vừa tươi mới.

Trend book club lan tỏa trong giới trẻ

Trend book club lan tỏa trong giới trẻ

Không chỉ dừng lại ở thói quen đọc sách cá nhân, ngày nay nhiều bạn trẻ tìm đến các book club (câu lạc bộ sách) như một không gian gặp gỡ, chia sẻ và nuôi dưỡng đam mê tri thức. Từ những quán cà phê nhỏ, thư viện cộng đồng đến các nhóm trực tuyến, phong trào sinh hoạt câu lạc bộ sách đang trở thành một xu hướng văn hoá mới, góp phần khơi dậy tinh thần đọc và hình thành cộng đồng gắn kết bằng tri thức.

Xếp hạng 4 di tích quốc gia đặc biệt

Xếp hạng 4 di tích quốc gia đặc biệt

Theo thông tin từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Phó Thủ tướng Chính phủ Mai Văn Chính vừa ký Quyết định số 1959/QĐ-TTg ngày 11/9/2025 về việc xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (đợt 18, năm 2025) đối với 4 di tích.

fb yt zl tw