Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Hồng Hà vừa ký ban hành Quyết định số 979/QĐ-TTg ngày 22/8/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo đó, Quy hoạch hướng tới mục tiêu từng bước hình thành và phát triển hệ thống cảng cạn trên phạm vi cả nước nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất, nhập khẩu, tăng năng lực thông qua hàng hóa của các cảng biển; tổ chức vận tải container một cách hợp lý nhằm giảm chi phí vận chuyển và thời gian lưu hàng tại cảng biển, đảm bảo an toàn hàng hóa; góp phần giảm ùn tắc giao thông và bảo vệ môi trường, đặc biệt ở các đô thị lớn và khu vực có cảng biển lớn. Phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics.

cang-can.jpg

Đến năm 2030 phát triển hệ thống cảng cạn có khả năng thông qua khoảng từ 25% đến 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải. Hình thành các cảng cạn, cụm cảng cạn với tổng công suất khoảng từ 11,9 triệu TEU/năm đến 17,1 triệu TEU/năm. Trong đó, khu vực phía Bắc gồm các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 4,29 triệu TEU/năm đến 6,2 triệu Teu/năm; khu vực miền Trung - Tây Nguyên có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 0,9 triệu TEU/năm đến 1,4 triệu TEU/năm; khu vực phía Nam có các cảng cạn, cụm cảng cạn với công suất khoảng từ 6,8 triệu TEU/năm đến 9,5 triệu Teu/năm.

Định hướng đến năm 2050 phát triển hệ thống cảng cạn trở thành các đầu mối tổ chức vận tải, trung chuyển, phân phối hàng hóa, kết hợp với cung cấp các dịch vụ logistics, có khả năng thông qua khoảng 30% - 35% nhu cầu hàng hóa vận tải container xuất nhập khẩu theo các hành lang vận tải, đồng thời đáp ứng nhu cầu dịch vụ logistics tại các địa phương.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch xác định 05 giải pháp thực hiện gồm: Giải pháp về cơ chế, chính sách; giải pháp về huy động vốn đầu tư; giải pháp về hợp tác quốc tế, khoa học - công nghệ và môi trường; giải pháp về phát triển nguồn nhân lực; giải pháp về tổ chức thực hiện quy hoạch.

Quy hoạch phát triển hệ thống cảng cạn tại 03 khu vực phía Bắc, miền Trung - Tây Nguyên và phía Nam.

Tổng nhu cầu sử dụng đất phát triển cảng cạn theo quy hoạch đến năm 2030 khoảng từ 1.199 ha đến 1.707 ha, trong đó diện tích đất cần bổ sung thêm khoảng từ 784 đến 1.211 ha. Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng cạn đến năm 2030 khoảng từ 27,4 đến 42,38 nghìn tỷ đồng. Trong đó ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng cạn trên các hành lang vận tải kết nối với các cửa khẩu cảng biển lớn ở khu vực phía Bắc (cảng biển Hải Phòng) và khu vực phía Nam (cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu).

Theo Quyết định được phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương liên quan quản lý và tổ chức triển khai thực hiện Quy hoạch; công bố quy hoạch theo Luật Quy hoạch. Định kỳ hàng năm, 05 năm hoặc đột xuất tổ chức đánh giá, rà soát, đề xuất điều chỉnh quy hoạch phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội theo quy định. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và các bộ, ngành, địa phương trong quá trình triển khai thực hiện quy hoạch để đảm bảo không ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng. Phối hợp với các địa phương quản lý chặt chẽ các cảng cạn tiềm năng trên các hành lang vận tải đã quy hoạch và các cảng cạn định hướng quy hoạch sau năm 2030; quản lý, điều tiết tiến trình, quy mô đầu tư các cảng cạn trong cụm cảng cạn, đảm bảo tổng công suất cụm cảng cạn theo quy hoạch…

Các bộ, ngành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Giao thông vận tải và UBND các tỉnh, thành phố bố trí nguồn lực, đề xuất các cơ chế chính sách để thực hiện khả thi, hiệu quả các mục tiêu của quy hoạch, bảo đảm tính thống nhất với quy hoạch, kế hoạch phát triển từng ngành và địa phương.

UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về cảng cạn theo quy định của pháp luật có liên quan trong phạm vi địa phương; đảm bảo quỹ đất phục vụ quy hoạch và quản lý chặt chẽ quỹ đất thực hiện quy hoạch. Rà soát, xây dựng, điều chỉnh các quy hoạch, các dự án trên địa bàn địa phương bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy hoạch này. Cập nhật nội dung quy hoạch tỉnh bảo đảm tuân thủ các định hướng phát triển giao thông địa phương theo quy hoạch này, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ môi trường. Chịu trách nhiệm đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông kết nối từ cảng cạn đến tuyến giao thông trục chính (quốc lộ, cao tốc, đường thủy nội địa, đường sắt).

Theo Quy hoạch, khu vực phía Bắc có 06 hành lang vận tải. Trong đó hành lang vận tải Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng:

- Phạm vi quy hoạch gồm các tỉnh và thành phố: Hà Nội, Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang.

- Năng lực thông qua cảng cạn trên hành lang đến năm 2030 khoảng từ 585 nghìn TEU/năm đến 900 nghìn TEU/năm.

- Tổng diện tích quy hoạch cảng cạn đến 2030 khoảng từ 60 ha đến 95 ha.

Theo Cổng thông tin điện tử tỉnh Lào Cai null

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Phường Trung Tâm: Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2025 đạt 160 tỷ đồng

Ngay sau khi mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đi vào hoạt động, phường Trung Tâm, tỉnh Lào Cai đã tập trung triển khai đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển nhanh, bền vững và hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường.

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Nông dân Bản Lầu chung tay phát triển kinh tế tập thể

Trong những năm gần đây, Hội Nông dân xã Bản Lầu, đã đạt nhiều kết quả tích cực trong công tác hội và phong trào nông dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống hội viên. Với hơn 3.300 hội viên sinh hoạt tại 36 chi hội, phong trào phát triển kinh tế tập thể ngày càng lan tỏa, trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp địa phương.

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Agribank Mường Khương - điểm tựa vốn cho phát triển nông nghiệp hàng hóa

Trong quá trình tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, huyện Mường Khương (trước đây) xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng là nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, thiếu vốn vẫn là “nút thắt” lớn đối với nông dân. Do vậy, nguồn tín dụng ngân hàng kịp thời, phù hợp của Agribank Chi nhánh Mường Khương Lào Cai II đã trở thành điểm tựa quan trọng, giúp người dân đầu tư phát triển các mô hình cây trồng có giá trị kinh tế cao.

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Điều tiết thời vụ, người trồng rau Sa Pa trúng lớn

Giá rau xanh trên thị trường đang vào thời điểm đắt chưa từng có, nguyên nhân được cho là đầu vụ, các địa phương chưa thu hoạch rau vụ đông, bên cạnh đó, thiên tai khiến nhiều nơi không thể sản xuất rau xanh. Biến động thị trường này lại đang đem đến cơ hội tăng thu nhập cho người trồng rau trên địa bàn phường Sa Pa và một số vùng lân cận có khí hậu tương tự.

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Kinh nghiệm trồng rau vụ đông của ông Lê Công Tâm

Trên những thửa ruộng, bãi màu ở thôn Liên Hà 6, xã Bảo Hà, những luống rau vụ đông xanh mướt, thẳng hàng nối tiếp nhau đã trở thành hình ảnh quen thuộc. Từ việc tận dụng diện tích đất sau thu hoạch vụ mùa, gia đình ông Lê Công Tâm được xem là điển hình trong phát triển kinh tế từ sản xuất rau.

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Lào Cai: Kinh tế số chiếm 9,46% GRDP

Năm 2025, tỷ trọng kinh tế số của tỉnh đạt 9,46% GRDP, phản ánh sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu kinh tế. Khoảng 60% doanh nghiệp trên địa bàn đã chủ động ứng dụng các nền tảng số vào quản trị, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, qua đó tối ưu hóa quy trình, giảm chi phí, mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập.

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Lào Cai có 166 chi hội nông dân nghề nghiệp

Giai đoạn 2023 - 2025, Hội Nông dân tỉnh Lào Cai đã thành lập mới 98 chi hội nông dân nghề nghiệp, nâng tổng số toàn tỉnh lên 166 chi hội với khoảng 4.500 thành viên, đồng thời duy trì 687 tổ hội nông dân nghề nghiệp với hơn 8.300 hội viên tham gia.

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Đẩy mạnh chuyển đổi giống cây trồng ở vùng cao

Thời gian qua, chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng ở các xã vùng cao như Hạnh Phúc, Phình Hồ, Trạm Tấu được triển khai đồng bộ. Các mô hình sản xuất mới từng bước tạo chuyển biến rõ nét trong thu nhập của người dân, góp phần giảm nghèo đa chiều, bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương.

Đổi thay Lùng Phình

Đổi thay Lùng Phình

Nhờ sự quan tâm và tập trung nguồn lực cho phát triển hạ tầng, chuyển đổi mô hình sản xuất và nâng cao thu nhập cho người dân, diện mạo nông thôn ở xã vùng cao Lùng Phình ngày càng đổi mới, khang trang.

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Hiệu quả từ những mô hình sản xuất mới ở Lùng Phình

Ngoài phát triển nông nghiệp với các mô hình trồng rau, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu hay phát triển du lịch, nhiều nông dân trên địa bàn xã Lùng Phình đã mạnh dạn đưa giống cây trồng mới vào sản xuất hoặc đầu tư mở xưởng mộc, chế biến gỗ... góp phần nâng cao thu nhập và từng bước giảm nghèo.

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Hướng phát triển kinh tế mới ở Bản Xèo

Tháng 12, sương núi Bản Xèo buông xuống thành những dải mỏng như lụa, phủ lên những triền đá xám lạnh. Giữa cái giá rét của vùng cao, sắc cam ấm từ những vườn quýt đang độ chín như đánh thức cả sườn núi. Đó là vườn quýt của anh Vàng Văn Dũng, người đầu tiên đưa giống quýt về trồng tại xã Bản Xèo, mở ra một hướng phát triển kinh tế mới cho địa phương.

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Lùng Phình thu hút đầu tư nông nghiệp tạo sinh kế giảm nghèo cho người dân

Phát huy lợi thế về khí hậu ôn đới, đất đai rộng và màu mỡ, những năm gần đây xã Lùng Phình xác định phát triển nông nghiệp hàng hóa ứng dụng công nghệ cao là hướng đi trọng tâm nhằm tạo sinh kế bền vững, nâng cao thu nhập và giảm nghèo cho Nhân dân. Hiện địa phương đang thu hút doanh nghiệp, hợp tác xã đầu tư sản xuất nông nghiệp hiện đại, từng bước hình thành vùng sản xuất tập trung, gắn kết chặt chẽ giữa khâu sản xuất và tiêu thụ.

Phúc Lợi toàn lực hỗ trợ cho giảm nghèo

Phúc Lợi toàn lực hỗ trợ cho giảm nghèo

Thông qua việc đẩy mạnh hỗ trợ sinh kế và tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản, năm 2025, xã Phúc Lợi đã giúp 126 hộ nghèo, cận nghèo thoát nghèo, đưa tỷ lệ nghèo đa chiều của xã giảm từ 9,99% xuống còn 6,23%.

fb yt zl tw