Đổi tên thành Luật Căn cước và thẻ Căn cước
Trước đó, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban QPAN của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Căn cước.
Về tên gọi của dự thảo Luật và tên thẻ Căn cước, UBTVQH cho rằng, việc sử dụng tên gọi Luật Căn cước thể hiện rõ tính khoa học, vừa bao quát được phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, vừa phù hợp với xu hướng quản lý xã hội số, phù hợp với mục đích quản lý và phục vụ nhân dân. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ tên gọi là Luật Căn cước và thẻ Căn cước.
Về thu thập, cập nhật, kết nối, chia sẻ, khai thác thông tin trong Cơ sở dữ liệu căn cước (Điều 16), có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc thu thập thông tin sinh trắc học về mống mắt vào điểm d khoản 1 tương tự như đối với việc thu thập thông tin sinh trắc học về ADN và giọng nói để đảm bảo tính khả thi và phù hợp với điều kiện triển khai trong thực tiễn.
Chủ nhiệm Ủy ban PQAN Lê Tấn Tới khẳng định, khoa học hiện nay đã chứng minh, cùng với vân tay, mống mắt của một người có cấu trúc đường vân phức tạp và duy nhất đối với mỗi người, không thay đổi nhiều theo thời gian. Vì vậy, bên cạnh việc thu thập vân tay, dự thảo Luật đã bổ sung quy định thu thập mống mắt trong thông tin căn cước để làm cơ sở đối soát và xác thực thông tin của mỗi cá nhân; hỗ trợ trong những trường hợp không thu nhận được vân tay của một người. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Giải trình, tiếp thu ý kiến về các trường hợp cấp đổi, cấp lại thẻ căn cước (Điều 24), UBTVQH tiếp thu ý kiến ĐBQH, chỉnh lý nội dung này như dự thảo Luật và xin báo cáo như sau: Khi các thông tin của công dân được lưu trữ, mã hóa trong bộ phận lưu trữ của thẻ Căn cước có sai sót thì cũng phải cập nhật, điều chỉnh để bảo đảm thông tin trên thẻ phản ánh chính xác với thực tế và thống nhất với thông tin trong các cơ sở dữ liệu, thông tin trong căn cước điện tử…, đáp ứng yêu cầu đúng, đủ, sống, sạch, cũng như quyền lợi của người dân khi thực hiện các giao dịch. Do đó, trong trường hợp không phải đổi thẻ Căn cước thì công dân phải thực hiện thủ tục điều chỉnh, cập nhật thông tin. Để xử lý trường hợp này, bên cạnh việc chỉnh lý điểm d khoản 1 Điều 24, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung nội dung giao Chính phủ “quy định trình tự, thủ tục cập nhật, điều chỉnh thông tin trên thẻ Căn cước” tại khoản 6 Điều 22 như dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua.
Thẻ Căn cước có tính bảo mật rất cao
Đối với quy định về Giấy chứng nhận Căn cước và quản lý người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch được cấp Giấy chứng nhận Căn cước, UBTVQH đề nghị không mở rộng đối tượng cấp Giấy chứng nhận Căn cước đối với toàn bộ người không quốc tịch.
Giải trình, tiếp thu ý kiến về cấp, quản lý căn cước điện tử (Chương IV), có ý kiến nhất trí sự cần thiết quy định về căn cước điện tử trong dự thảo Luật. Có ý kiến đề nghị báo cáo thêm về vấn đề bảo mật của thẻ Căn cước gắn chíp vì dễ bị xâm nhập, theo dõi.
Chủ nhiệm Ủy ban QPAN cho biết, thẻ Căn cước hiện nay được chế tạo bằng công nghệ tiên tiến, có khả năng bảo mật cao, bảo đảm chống lại việc làm giả thẻ. Trong chíp điện tử trên thẻ Căn cước có công nghệ xác thực thông qua đối sánh vân tay hoặc khuôn mặt nhằm xác thực chính xác chủ thẻ. Theo đó, khi một người sử dụng thiết bị đọc thông tin lưu trữ trong chíp điện tử phải được sự đồng ý của chủ thẻ thông qua phương thức xác thực vân tay, khuôn mặt để được quyền truy cập vào ứng dụng đọc, truy xuất dữ liệu, nếu không có thao tác này thì không ai có thể truy cập để lấy thông tin trong thẻ Căn cước.
Bên cạnh đó, để khai thác được các thông tin trong chíp điện tử phải sử dụng thiết bị chuyên dụng và các thiết bị này phải được Bộ Công an cung cấp mã bảo mật để xác thực, bảo đảm an ninh, an toàn bảo mật thông tin. Trường hợp các cơ quan Nhà nước khác cung cấp thiết bị chuyên dụng để đọc thông tin trong thẻ Căn cước thì các thiết bị này đều phải được cơ quan chuyên môn của Bộ Công an kiểm tra và cung cấp mã bảo mật.
Về quy định chuyển tiếp (Điều 46), tiếp thu ý kiến của ĐBQH, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý, bổ sung quy định về chuyển tiếp đối với căn cước công dân và chứng minh nhân dân tại khoản 3 Điều 46 như sau: “Thẻ Căn cước công dân, chứng minh nhân dân hết hạn sử dụng từ 15-1-2024 đến trước 30-6-2024 thì tiếp tục có giá trị sử dụng đến hết 30-6-2024”; theo đó, bổ sung khoản 2 Điều 45 quy định về hiệu lực thi hành như sau: “Quy định tại khoản 3 Điều 46 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 15-1-2024”; đồng thời chỉnh lý một số nội dung của Điều 45 và Điều 46 bảo đảm cụ thể, rõ ràng và phù hợp với thực tế.