LCĐT - Con đường bê tông dưới hàng cây rợp bóng dẫn vào ngôi nhà nhỏ mang dáng dấp kiến trúc của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Xung quanh những rạch chè xanh mướt chuẩn bị bước vào kỳ thu hoạch nối nhau chạy lên tận đỉnh đồi. Cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái ở thôn Na Phả, xã Bản Sen, huyện Mường Khương kể cho chúng tôi nghe về một thời cùng với thanh niên cả nước nguyện “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
“Thời đó, cả nước ra trận. Được vào chiến trường, chiến đấu chống lại kẻ thù là lẽ sống cao cả, khát vọng của tuổi trẻ mà mỗi chúng tôi đều khao khát...”, cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái bắt đầu câu chuyện về những tháng năm tuổi trẻ sôi nổi một cách chậm rãi. Có lẽ trong giây phút ấy, ông đang thực hiện “một cuộc hành quân” trở lại quá khứ để lật giở từng trang ký ức đẹp đẽ của cuộc đời mình.
![]() |
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái (áo trắng) kể về những năm tháng chiến đấu, góp phần giải phóng miền Nam. |
Tháng 12 năm 1971, khi vừa tròn 18 tuổi, chàng thanh niên tên Nguyễn Văn Thái tạm biệt quê hương Kiến Xương, Thái Bình lên đường tòng quân. Sau thời gian huấn luyện tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa, tháng 2/1972, đơn vị của ông bắt đầu hành quân vào chiến trường. Thời gian đầu, đơn vị đóng quân ở huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, ngay khu vực biển Cửa Tùng, ngày đêm thực hiện nhiệm vụ đào hầm, hào phục vụ công tác của Bộ Chỉ huy Sư đoàn 320B. Ban ngày, hỏa lực địch bắn phá ác liệt, buộc những chiến sĩ công binh như ông phải làm nhiệm vụ vào ban đêm. Do địa chất chủ yếu là cát nên thường bị lở, các chiến sĩ công binh phải tranh thủ thời gian lấy vật liệu từ bất cứ thứ gì có thể tận dụng được như tre, gỗ, tôn của nhà dân quanh vùng về gác lên mái hầm, vì thế, làm được mỗi chiếc hầm chữ A, hầm vuông đều mất rất nhiều công sức.
Tôi nhớ nhất là lần đi lấy vật liệu ở khu vực Dốc Miếu về làm hầm, hôm đó có 5 người thì 1 đồng chí đi trước vướng phải mìn hy sinh ngay trước mắt chúng tôi. Chiến trường khốc liệt thế đấy, không cứ chiến sĩ giáp mặt chiến đấu với kẻ thù mà bất cứ ai làm nhiệm vụ gì đều có thể hy sinh. Những đồng đội vừa còn nói cười vui vẻ, nhưng chỉ trong tích tắc đã mãi mãi dừng lại ở tuổi 20”, cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái xúc động nhớ lại.
Theo lời kể của cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái, trong những năm tháng tham gia đánh Mỹ, ông từng chứng kiến và tham gia chiến đấu ở Quảng Trị năm 1973, trải qua những ngày hè đỏ lửa nơi chiến trường ác liệt này. Sau một thời gian, vị trí hầm của Bộ Chỉ huy sư đoàn bị địch phát hiện nên phải di chuyển đến nơi khác để đảm bảo an toàn. Vậy nên, địa bàn đóng quân của đơn vị ông Thái thường không cố định, lúc ở Gio Linh, rồi Triệu Phong, Hải Lăng, khi ở khu vực Dốc Miếu - Cồn Tiên và dọc sông Ba Lòng; có thời gian lại tham gia thực hiện nhiệm vụ phá bom từ trường trên sông Thạch Hãn. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 7/1975, ông Thái xuất ngũ, đến cuối năm thì chuyển cả gia đình lên lập nghiệp tại xã Bản Sen, huyện Mường Khương và sinh sống cho đến nay…
Những câu chuyện về cuộc đời người lính trong chiến tranh đều có chung sự gian khổ, hy sinh. Biết rõ điều đó nhưng tất cả họ đều ra trận với tư thế “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, để Tổ quốc nở hoa độc lập. Cựu chiến binh Nguyễn Văn Long ở tổ dân phố 2A, thị trấn Phố Ràng, huyện Bảo Yên năm nay 67 tuổi kể rằng trong những năm tháng hào hùng đó, ông cùng đồng đội đã hành quân bộ ròng rã từ Quán Triều, Thái Nguyên vào chiến trường B suốt 3 tháng 13 ngày để “tìm giặc mà đánh”. Đó là đầu năm 1973, khi ông mới 19 tuổi. Đến tỉnh Kon Tum, ông Long được điều về Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 28, Sư đoàn 10, Bộ Tư lệnh B3.
![]() |
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Long với niềm vui đời thường |
Dù cuộc trường chinh vĩ đại của dân tộc đã kết thúc 46 năm, nhưng cựu chiến binh Nguyễn Văn Long vẫn nhớ như in cảm xúc trận đánh đầu tiên tại chiến hào Trung Nghĩa. Hôm đó, mỗi người được phát 9 nắm cơm (định suất dùng trong 3 ngày), khi trời vừa chạng vạng tối, tất cả bắt đầu xuất phát, đến khoảng 10 giờ đêm thì đến vị trí tập kết gần đường 51, rồi phải trườn, bò một quãng nữa mới vào khu vực bố trí trận địa. Mọi người mau chóng đào hầm trú ẩn, chờ đến chiều hôm sau, trận đánh mới bắt đầu. “Là lính mới, sau vài phút lo lắng, bỡ ngỡ, được các đồng đội đi trước chỉ bảo, tôi quen dần với chiến đấu”, cựu chiến binh Nguyễn Văn Long bộc bạch. Cũng trong trận chiến đấu đầu tiên của cuộc đời, ông Long bị 2 mảnh M79 của địch găm vào cánh tay trái, dù rất đau đớn nhưng ông vẫn cùng đồng đội chiến đấu giành thắng lợi.
Cứ thế, ông Long đã tham gia chiến đấu giải phóng Tây Nguyên, rồi theo đường 21 xuống đèo Phượng Hoàng, ra Nha Trang, Cam Ranh (Khánh Hòa), ngược lên Đà Lạt (Lâm Đồng), đánh sân bay Liên Khương, qua Đức Trọng, Gia Nghĩa, Lộc Ninh, sau đó vào rừng cao su, củng cố lực lượng chuẩn bị đánh cầu Bông, cầu Sáng, cửa ngõ phía Tây Bắc Sài Gòn để chuẩn bị giải phóng Sài Gòn. Theo sự phân công, đơn vị ông Long chuẩn bị phương án bơi qua sông Sài Gòn để vào sâu nội đô, nhưng do thế địch yếu, chúng đã rút lui, co cụm vào bên trong tử thủ. Ông Long cùng đồng đội truy quét địch trên các đường phố Sài Gòn, đến khoảng 12 giờ trưa 30/4/1975 thì vào đến dinh Độc Lập, chỉ sau chiếc xe tăng đầu tiên húc đổ cổng dinh chừng hơn 30 phút.
“Miền Nam hoàn toàn giải phóng, chúng tôi nhìn nhau mà cứ ngỡ trong mơ, thế là từ nay đất nước đã hoàn toàn độc lập, giang sơn thu về một mối. Cũng trong giây phút hạnh phúc ngất ngây ấy, chúng tôi thấy nhớ nhà, nhớ gia đình da diết”, cựu chiến binh Nguyễn Văn Long hồi tưởng.
Với những thành tích đạt được trong chiến đấu, ngay tháng 9/1974, ông Long được kết nạp Đảng ngay trong chiến trường, đến năm 1976, ông xuất ngũ trở về địa phương lao động, sản xuất. Đến nay 1979, ông tái ngũ tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Năm 1987, ông xuất ngũ lần 2…
Có một thời cả nước ra trận, có những người con gái, con trai đang phơi phới thanh xuân như cựu chiến binh Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Văn Long và hàng nghìn, hàng vạn người con đất Việt với bao ước mơ, hoài bão, nhưng họ sẵn sàng gác lại tất cả để chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước.