Giới thiệu tác giả - tác phẩm: Nguyễn Thắng

Tác giả Nguyễn Thắng, sinh ngày 22/3/1954 tại Cầu Giấy (thành phố Hà Nội), hội viên Hội Văn học - Nghệ thuật Lào Cai, hiện giữ chức vụ Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cộng đồng Lào Cai.

Tuy thời gian sáng tác không nhiều, nhưng tác giả Nguyễn Thắng sớm được độc giả biết đến bởi những tác phẩm văn học mang dấu ấn riêng. Một số tác phẩm đáng chú ý của anh là những truyện ngắn: Ngày hạ chí; Hoàng hôn đỏ; Hai bông lúa vàng; Trăng Sa Pa; Lập trình và mộng mơ... Anh từng đoạt giải thưởng văn học - nghệ thuật Lào Cai những năm 1994, 1996. Ngoài sáng tác trong lĩnh vực văn học, tác giả Nguyễn Thắng còn tham gia làm phim du lịch và có những tác phẩm tiêu biểu như: Sa Pa thành phố trong sương; Cao nguyên trắng.

Hoàng hôn đỏ (truyện ngắn)

Mắt đậm lệ, nhẹ nhàng đến bên bàn thờ, tay run run châm ba nén nhang, Thanh Hằng thổn thức: “Ba ơi, phương trời xa ba có thấu hiểu lòng con, mong ba phù hộ độ trì cho con, cho các cháu”, ngước nhìn lên tấm ảnh đã hơi ố vàng, chập chờn sau ngọn nến trắng, nàng thấy hình như mắt ông đang nheo nheo, tinh nghịch, thoang thoảng bên tai giọng nói thân thương: “Luna, về ngủ đi, khuya rồi, ba nhớ con lắm, tại cõi vĩnh hằng này, ba dõi theo con từng phút, từng giờ. Cười đi con, vầng trăng bé nhỏ của ba...”. Ngọn nến đã gần tàn, ba thẻ hương cong như ba dấu hỏi, ngoài cửa sổ trăng hạ tuần chênh chếch dãy Nhạc Sơn, mùi dạ lan hương theo gió thơm ngát cả gian phòng. Vịn tường trở lại buồng ngủ, bé Ngọc Linh với những búp tóc vàng gợn sóng, ngủ say như một tiểu thiên thần, góc trong, Ba Bình - chồng nàng béo như một võ sỹ Sumo, đang khò khò kéo gỗ.  Nằm sấp mặt trên chiếc gối trắng, rất lâu, rất lâu, Thanh Hằng chập chờn, chập chờn...

...Sân bay Nội Bài một ngày đầu hè, va ly, khăn gói lỉnh kỉnh, gia đình ông Luis Roberto chuẩn bị hồi hương về Mác Xây, mọi thủ tục đã xong xuôi, trên đường băng chói nắng, chiếc máy bay khổng lồ của Air France đang chờ. Ông Roberto hồi hộp, trong lòng rộn bao cảm xúc. Ba mươi hai năm xa Mác Xây, ông như nghe thấy tiếng sóng biển đâu đây, các sọt cam, lê, táo ngồn ngộn một góc cảng chờ phút lên tầu, khi mặt trời đỏ ối chuẩn bị lặn xuống, cơ man nào là cá, các bà vợ của những chàng ngư dân lực lưỡng đội cá lên đầu đổ vào các kho lạnh, các chú bé Mác Xây da rám nắng xúm nhau kéo lê các sọt cá lên cửa kho. “Bụp”, tiếng trái bóng da nảy trên cát, trận quyết chiến bắt đầu, “Ôlempic Mác Xây” quyết hạ “Paris Xanh Giéc Manh” để giành cúp cảng... Giọng nói tiếng Anh của cô phát thanh viên bỗng vang lên: “Tại cửa số 1, chúng tôi bắt đầu đón hành khách bay chuyến 14h chiều đường bay Hà Nội - Paris, mời quý khách chuẩn bị...”. Ông Roberto chợt bừng tỉnh, ông cuống lên nhìn quanh, vợ, con ông đông đủ cả, cả thằng Paul Việt nữa, ông thở phào. Tạm biệt Việt Nam , hẹn ngày gặp lại... Vợ chồng Ba Bình đang an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, mẹ thương ba lắm cơ mà, không có mẹ đi cùng ba chịu sao nổi...”. Bà Chi gạt nước mắt, tình nghĩa vợ chồng 25 năm đầy sâu nặng, nhưng... dù sao cũng nơi đất khách, quê người... Chỉ có tụi trẻ con, thằng Việt, con Nam là vô tư, từ bé đến giờ mới được nhìn thấy máy bay, lát nữa lại được ngồi trên đó, thật như ngủ mê... Hành khách đi dần ra cửa, Ba Bình giục mọi người kiểm tra hành lý... Thế rồi... cái phải đến đã đến... Ông Roberto ôm chầm Thanh Hằng nức nở: “Luna, con không thương ba ư? Sao con không đi cùng ba?...”. Mặt ông tái đi, ông khóc như đứa trẻ. Thanh Hằng giàn giụa nước mắt, nàng nấc lên: “Con... biết làm sao ba ơi... Còn chồng, còn con... ba thương con... ba đừng khóc nữa... ba đang ốm mà...”. Chiếc Boing vút lên, tiếng động cơ xé không khí lộng óc... Ông Roberto thấy người bị ép chặt xuống ghế, ông như nghẹt thở, miệng vẫn nghẹn ngào: “Luna, con sao... con không đi cùng ba...”...Mùa hè năm 1946, chàng trai Roberto mệt mỏi sau một ngày làm lụng cực nhọc, mỗi ngày 10 tấn hàng qua vai anh từ cầu cảng xuống boong tàu cũng chỉ đủ bánh mỳ cho bẩy miệng ăn. Mác Xây còn tiêu điều sau cuộc chiến, không còn bóng tụi lính Đức giày ủng bóng lộn sẵn sàng đạp lên đầu những người phu khuân vác chậm chân, nhưng... cả tuần mới được nửa cân xúc xích, mắt anh hoa đi khi trèo cầu tầu, vai oằn lại dưới sức nặng của bao hàng. Cả tuần nay, tối nào cũng phải làm thêm, bất kể việc gì: Xếp hàng vào kho, đón những thuyền cá muộn, phủ bạt những lô hàng không kịp xuống tầu... Mẹ anh đang ốm nặng, không còn tiền đón bác sỹ đến cho thuốc. Bãi cát trắng đông nghịt người, Roberto không lòng dạ nào vào trận chung kết cúp cảng. Áo vắt vai, ngực trần, anh đi vào quán bà Lôla, chợt anh dừng lại, tấm biển quảng cáo trên cánh cửa kho cảng đập vào mắt anh: “Xứ Đông Pháp tuyệt vời đang chờ các bạn, Lữ đoàn dù số 3 đang tuyển gấp 200 tân binh. Lương trả trước 200.000 quan. Hãy đến số nhà 303 sát Toà thị chính. Bạn sẽ trở thành tướng Đờ Gôn của một thời kỳ mới”.

Thế là, ba tháng tại căn cứ của lữ đoàn dù, 103 lần tập nhảy dù trên các cánh đồng Boócđô, trên sườn núi của dãy Pyrinê ẩm ướt, trên sa mạc tây Xahara nóng nực, một tháng trời lênh đênh trên sóng nước Đại Tây Dương, Thái Bình Dương và... bây giờ... xứ Đông Pháp huyền bí.   ...Sân bay Gia Lâm, trước cửa căn nhà lợp tôn dã chiến, Trung sỹ Roberto mở to mắt nhìn không chớp cánh đồng xứ nhiệt đới thẳng cánh cò bay, những con trâu láng bóng phì phò, các cô gái Việt Nam đi cấy, chỉ nhìn thấy đôi mắt đen láy... Tất cả đều lạ lẫm... Rút một điếu thuốc, tay anh chạm vào lá thư bên túi áo trái, lòng anh ấm lại, “Mẹ  đã qua cơn nguy kịch nhờ có tiền mua thuốc”, Mary viết thế và “Chiều nào mẹ cũng ra cầu cảng để đón anh”... Anh nhớ cồn cào mùi cá của bến cảng quê hương, nhớ từng khuôn mặt của những thằng bạn trong đội vô địch cúp cảng, nhớ mẹ tóc đã bạc trắng, nhớ Mary, con bé hay nhõng nhẽo... - Suy tư gì thế, nhớ người yêu phải không? Mon Ami, ngày mai anh sẽ cho chú mình một sơn nữ Việt Minh của dãy Pyrinê nhiệt đới, hài lòng chứ? - Trung uý Henry vừa cười vừa tung chiếc bật lửa. “Con đầm pích” cho Roberto. Luis giật mình giơ tay bắt chiếc bật lửa, mùi thuốc Effen thơm thơm lan toả.  - Sếp nói gì cơ? Ngày mai lên đường à? Tây Nguyên hay Việt Bắc?” - Trả chiếc bật lửa, Roberto nhìn thẳng mắt Henry dò hỏi. - Bí mật quân sự, biết nhiều chóng già, chú nhóc ạ. Rồi chú mày sẽ biết mùi vị thơm tho của xứ An Nam kỳ lạ này... Henry nhún vai như một diễn viên của gánh kịch rong miền Andát. Chồng thư có con dấu bưu điện Mác Xây cứ dầy lên, cuối lá thư nào cũng là “Mẹ sẽ đón con trên cầu tầu bến cảng”. Trung uý Roberto da đã sạm đen vì nắng gió nhiệt đới, bẩy năm ở Việt Nam làm sỹ quan tham mưu cho ba vị tướng, Roberto luôn day dứt: “Tại sao Paris hay thay tướng thế? Thế thì còn đánh đấm gì. Tại sao những đôi mắt đen láy sau chiếc khăn mỏ quạ chỉ ánh lên những tia lạnh lùng, không một chút thiện cảm? Chẳng lẽ đây không phải là xứ Đông Pháp”. Mùa đông 1953, nhận lệnh của Trung tá Henry, Roberto cùng hai sỹ quan phòng tham mưu nai nịt gọn gàng, nhẩy dù xuống một ngọn đồi phía Tây Bắc Việt để khảo sát địa hình. Sương mù dày đặc, dù của Roberto vướng vào một bụi tre lớn, chân anh đập vào một cây gỗ, mắt hoa lên, rút con dao găm bên sườn cắt mấy sợi dây vướng, anh nằm gục dưới chân bụi tre, mặt sước đầy máu, chân phải bất động. Bóng đêm trùm xuống, không hiểu hai đồng đội lạc đâu trong khu rừng rậm mênh mông này. Sáng sớm hôm sau khi đàn muỗi, vắt đã no nê máu đỏ của chàng trai biển, Roberto tỉnh dậy, anh cố lê theo hướng đông, lê mãi, khi mắt đã nhìn thấy hàng ngàn con đom đóm thì một tiếng hô sắc lạnh: “Hôlêmanh”, chẳng thể giơ tay anh đã ngất xỉu. Khi tỉnh lại, chân phải thẳng đơ như một khúc giò, hai bên hai nẹp tre tươi, bên trong một thứ lá rừng nhơn nhớt, môi sưng rộp khô cứng, anh thều thào: “Nước, nước”, một cái gì lành lạnh ở miệng, anh uống ừng ực nhưng cái bát sắt đã lùi ra xa, tiếng phụ nữ dịu dàng: “Lát nữa mới được uống thêm, giờ thì anh nằm yên, không được co chân...”. Mười lăm ngày trong chiếc lều tre giữa rừng, Roberto biết được nhiều điều. Sau những phút lạnh lùng ban đầu, anh đã được nói chuyện cởi mở với một chiến binh Việt Minh, áo bông trấn thủ, đẹp trai, nói tiếng Pháp đúng giọng Paris. Hoá ra hai người cùng tuổi - tuổi Ngọ - Tân, chàng cựu sinh viên trường luật nói với Roberto như vậy. “Con gà trống thành Gôloa cứ gáy vang trên đất Pháp, còn khu rừng này đã có chủ, Roberto ạ. 4.000 năm trước chúng tôi đã có một quốc gia riêng, chắc anh không biết, tự do - bình đẳng - bác ái, những câu bất hủ vang lên trong Cách mạng 1789 cũng được nhắc lại trong tuyên ngôn của nước Việt Nam. Còn điều này thì chắc anh biết: Chúng tôi giành được độc lập từ tay người Nhật...”. 15 ngày trong khu rừng rậm, Roberto hiểu được vì sao tướng Nava lại được điều sang Ðông Dương, vì sao 7 năm qua anh không được một lần nhìn thân thiện từ sau những chiếc khăn mỏ quạ. Các vết thương đã đỡ, ngày thứ 16, Roberto được Tân và cô y tá Thuỳ Chi đưa về hậu cứ của Việt Minh trên một con ngựa xám. Lại một lần nữa Roberto kinh ngạc khi tiếp xúc với các thượng cấp Việt Minh, họ còn quá trẻ tuy võ vàng vì thiếu ngủ, họ thông thuộc lịch sử nước Pháp, thuộc thơ tình Victo Hugo, đọc một lèo một lớp hài kịch Môlie rồi tất cả cười ôm bụng. Vị tướng trẻ hỏi: “Roberto, anh muốn ở cùng chúng tôi hay muốn trở về Hà Nội, tôi muốn chúng ta là bè bạn...”, mắt chớp chớp vì cảm động, Roberto không nói lên lời... Từ hôm đó Luis Roberto trở thành Lý Dân. Hằng ngày trong căn hầm ở hậu cứ, Lý Dân đọc những bản tin tiếng Pháp trên làn sóng phát thanh, in các tài liệu tiếng Pháp cùng Tân, chàng quân báo. Cứ mỗi lần bóng chiếc áo trắng của cô quân y Thuỳ Chi đi qua căn hầm, Tân lại tinh nghịch: “Ðố Dân biết tại sao mào của gà trống lại đỏ?”, Roberto mỉm cười ngượng nghịu...   Thế rồi, vào cái ngày Roberto không bao giờ quên được, cả căn hầm hậu cứ rung lên trong tiếng cười, tiếng hát, tiếng hét: “Ðiện Biên toàn thắng, tướng Ðờ Cát đã bị bắt sống...”, mọi người xô vào nhau, vật nhau. Thuỳ Chi bổ vào căn hầm để máy in, ôm chầm lấy lưng áo xanh gần nhất: “Anh Tân ơi, đại thắng rồi...”.Roberto quay lại, Thuỳ Chi đỏ mặt: “Vui quá, anh Dân ơi, anh sắp được về quê rồi...”.

Ðêm hôm đó, cả hậu cứ không ngủ, lửa đuốc, máy phát điện sáng cả khu rừng. Roberto cũng không ngủ được, anh ra gốc cây trám già, nơi đây Thuỳ Chi đã hát cho anh nghe bài dân ca Việt Nam “Người  ở đừng về”. Anh bồi hồi, vừa vui, vừa buồn man mác... Ðôi bàn tay nhỏ nhắn bịt chặt mắt anh, Roberto giữ nguyên trong bàn tay to lớn của mình, giọng Thuỳ Chi nhè nhẹ: “Thượng cấp mời anh lên gặp”, Roberto giật mình “Em nói gì cơ”, cái bóng trắng nhỏ nhắn chạy vút đi sau một cái véo vào lưng chàng trai trẻ. Trong căn hầm nhỏ, vị tướng với nụ cười đôn hậu nói chuyện thân mật với Roberto.

15 hôm sau, tại căn hầm lớn của hậu cứ, ông đã làm chủ hôn một đám cưới: Lý Dân - Thuỳ Chi. Chỉ có ông và vài người biết rằng Thuỳ Chi là cô gái mồ côi cha mẹ sau trận bom Pháp huỷ diệt làng Chiềng những ngày sau chiến dịch vòng cung biên giới... Ba mươi hai năm, Roberto đã coi đất nước này là quê hương thứ hai, Thuỳ Chi và các con là máu thịt của ông. Vầng trăng nhỏ trên chiến khu hôm nào đã trở thành Luna - Thanh Hằng xinh đẹp, niềm kiêu hãnh của vợ chồng Roberto. Hai cuộc chiến tranh với đất nước nhỏ bé đầy quả cảm này, đã bao lần những bức thư Mác Xây cứ cháy bỏng bên ngực trái. Tiếng sóng biển quê hương cứ đập mãi trong tim, bà mẹ già đã không chờ được ngày đón con trên cầu tàu bến cảng, cứ mỗi khi chiều xuống, hoàng hôn đỏ, ông lại thấy thơm lừng hương cá Mác Xây. Thanh Hằng hiểu lắm nỗi lòng người cha, khi chưa được ngụp lặn trong sóng nước quê nhà, lòng ông chưa nguôi thương nhớ. Hơn một năm nay, vết thương cũ tái phát, ông càng hay đăm chiêu, ông muốn đưa cả nhà sang Mác Xây, mọi giấy tờ, thủ tục đã xong,  còn duy nhất điều: Hình như Thanh Hằng còn nhiều uẩn khúc.

Trong ba đứa con, Thanh Hằng là người con ông yêu quý nhất. Nhỏ nhắn như một cô gái Hà nội, mắt xanh như nước biển Mác Xây, tóc vàng như bó nắng, Thanh Hằng là đoá hoa của tình yêu chiến khu, nàng là người con duy nhất nói thạo cả hai thứ tiếng, là bác sỹ đa khoa, nàng còn là bác sỹ riêng của ba những lúc trái nắng trở trời. “Chẳng lẽ Luna không thương yêu mình, không muốn trở về quê cha?...”. Ông Roberto không hình dung hết cơn bão trong trái tim Thanh Hằng. Bạn bè đều khuyên, đều chúc mừng Thanh Hằng trở về Pháp, về bên đó làm việc chắc sẽ đỡ vất vả hơn. Thanh Hằng như người sắp ốm, bên cha, nàng không dám nói “không”, bên chồng, nàng không dám nói “đi”, hàng tháng trời trái tim nàng nặng trĩu. Sáng hôm qua khi bó bột cho bé gái trạc tuổi Ngọc Linh, nghe bé thỏ thẻ: “Hôm nào khỏi, cô tháo chân cho cháu nhé”, nàng không khỏi xúc động. “Không biết vết thương cũ của ba thế nào”, nàng bồn chồn, lo lắng...

Ðêm nay, nước mắt đầm đìa, nàng có ngờ đâu, buổi trưa Nội Bài là ngày vĩnh biệt... Ba nàng đã được đặt chân lên cầu tầu  bến cảng, lồng ngực của ông đã hít căng ngọn gió mặn Mác Xây. Ông đã gặp những người bạn cùng đội bóng năm xưa nay đầu bạc trắng. Khi mặt trời lặn xuống biển xanh, ánh đỏ hoàng hôn như còn lưu luyến, như còn chờ đợi. Vầng trăng mọc từ phía đông. “Luna - Thanh Hằng, vầng trăng bé nhỏ của ba - cười đi con”. Ðó là lời nói cuối cùng của ông Roberto trước khi trái tim ngừng đập.

Có thể bạn quan tâm

Tin cùng chuyên mục

Khánh thành thư viện đọc sách cộng đồng đầu tiên tại thành phố Lào Cai

Khánh thành thư viện đọc sách cộng đồng đầu tiên tại thành phố Lào Cai

Ngày 31/5, thư viện đọc sách cộng đồng đầu tiên tại thành phố Lào Cai chính thức đi vào hoạt động tại khu tiểu công viên tổ dân phố số 7, phường Nam Cường. Đây là công trình do Chi bộ và các tổ chức đoàn thể Tổ dân phố số 7 triển khai nhằm tạo không gian học tập, giải trí và lan tỏa văn hóa đọc trong cộng đồng dân cư.

Trò chơi truyền thống độc đáo của người Mông

Trò chơi truyền thống độc đáo của người Mông

Tu lu là trò chơi lâu đời, gắn liền với cuộc sống sinh hoạt và đời sống tinh thần của người Mông. Với họ, Tu lu không đơn thuần chỉ là trò chơi trong dịp lễ hội hay những ngày Tết đến xuân về, mà còn là cách để giáo dục truyền thống, khơi dậy tinh thần đoàn kết, thể hiện sự khéo léo, mạnh mẽ của các chàng trai người Mông.

Khi nghệ thuật làm sống dậy không gian di sản

Khi nghệ thuật làm sống dậy không gian di sản

Thời gian gần đây, nhiều chương trình nghệ thuật được tổ chức tại không gian văn hóa gắn liền với các di sản đang trở thành điểm hẹn lý tưởng của người trẻ. Không còn là những buổi biểu diễn đơn thuần, đây là sự giao thoa hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, nơi âm nhạc, ánh sáng, thời trang hay trình diễn đương đại… được đặt trong không gian cổ kính của các di sản, tạo nên trải nghiệm độc đáo.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị rà soát công tác bảo vệ và phát huy di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị rà soát công tác bảo vệ và phát huy di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đề nghị cơ quan, đơn vị tại Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, đánh giá thực trạng công tác trưng bày, bảo quản, bảo vệ và các biện pháp bảo đảm an ninh, an toàn đối với bảo vật quốc gia đang trực tiếp quản lý.

Bảo vệ di sản: Không thể cứ thụ động mãi

Bảo vệ di sản: Không thể cứ thụ động mãi

Vụ việc phá hoại Bảo vật quốc gia Ngai vàng triều Nguyễn một lần nữa lại gióng lên hồi chuông báo động về bảo tồn, bảo vệ di sản, nhất là trong bối cảnh nhiều di sản, bảo vật quốc gia liên tục bị phá hoại, hư hại do những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Đã đến lúc không thể cứ thụ động trong việc bảo vệ di sản như thế này.

fb yt zl tw