Tư tưởng “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của Tổng Bí thư Lê Duẩn là sự kế thừa truyền thống cách mạng của Đảng, là sự áp dụng sáng tạo và linh hoạt Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Tư tưởng đó luôn là định hướng lớn cho mọi hoạt động của Đảng qua các giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam, trong đó có công tác đối ngoại.
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định trong việc tổ chức và triển khai thành công đường lối, chính sách trong tất cả các lĩnh vực hoạt động và phát triển của đất nước, trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Đảng luôn là lực lượng tiên phong và duy nhất có khả năng tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp mang lại nhiều thắng lợi vẻ vang cho đất nước. Cùng với vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định, những chiến công vẻ vang của cách mạng Việt Nam còn gắn liền với sự phát huy hiệu quả vai trò quản lý của Nhà nước đối với công tác đối ngoại và việc thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng và vận mệnh dân tộc. Tư tưởng “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của đồng chí Lê Duẩn luôn là định hướng lớn cho công tác đối ngoại trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như trong công tác đối ngoại thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước hiện nay.
![]() |
Đồng chí Lê Duẩn thăm và nói chuyện với cán bộ, nhân dân vùng giới tuyến Vĩnh Linh (Quảng Trị), tháng 2-1973. Ảnh tư liệu |
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Là người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nhà lãnh đạo lỗi lạc của Đảng và nhân dân ta, tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí Lê Duẩn gắn liền với việc Đảng hoạch định và chỉ đạo đúng đắn đường lối cách mạng nước ta, đem lại những thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Do đó, đóng góp của đồng chí Lê Duẩn đối với sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là rất có ý nghĩa.
Trước hết, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn luôn khẳng định tầm quan trọng của độc lập, tự chủ trong xây dựng và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Độc lập, tự chủ trong thời kỳ này được thể hiện qua chủ trương giữ vững khối đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa và phong trào nhân dân quốc tế ủng hộ Việt Nam kháng chiến, đồng thời giữ vững khả năng tự quyết về đường lối kháng chiến của Đảng. Đồng chí Lê Duẩn cho rằng, để đoàn kết quốc tế, duy trì được sự ủng hộ và giúp đỡ của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế, thì “chỉ có một cách là Đảng ta phải độc lập, có độc lập mới đoàn kết được, nếu ngả về bên nào thì không thể đoàn kết được, và kinh nghiệm lịch sử của Đảng ta là khi nào độc lập thì thắng lợi”. Nhờ có chủ trương đúng đắn đó của đồng chí Lê Duẩn mà Đảng ta đã xây dựng được một mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam ngay cả khi cuộc khủng hoảng của phong trào cộng sản quốc tế diễn biến gay gắt xung quanh con đường phát triển của cách mạng. Chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã giúp hình thành trên thực tế một mặt trận quốc tế rộng lớn ủng hộ nhân dân Việt Nam chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ. Sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, sự đồng tình, ủng hộ của phong trào cộng sản và công nhân, của các tổ chức dân chủ quốc tế, của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của nhân dân ta.
Vai trò lãnh đạo của Đảng còn được thể hiện bằng sự độc lập trên mặt trận ngoại giao. Đánh và đàm là điểm nhấn trong chiến lược của Đảng ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Điều này thể hiện rõ nét tại Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, năm 1967, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Duẩn. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, trong đó nêu rõ: “Đi đôi với đấu tranh quân sự và chính trị ở miền Nam, ta cần tiến công địch về mặt ngoại giao, phối hợp với hai mặt đấu tranh đó để giành thắng lợi to lớn hơn nữa”. Hội nghị đã nêu rõ vị trí của từng hình thức đấu tranh: “Đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường”. Nhưng trong những tình huống cụ thể, ngoại giao cũng có thể trở thành một mặt trận “chủ động tiến công địch”. Trên tinh thần đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968 đã mở ra cục diện đánh-đàm, từ đó tạo đà cho mặt trận đối ngoại và mở đầu cho chuỗi thắng lợi quan trọng về đối ngoại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Những chủ trương sáng suốt và kịp thời đó của Đảng dưới sự đóng góp của đồng chí Lê Duẩn đã tạo nên sức mạnh tổng hợp tấn công địch trên cả hai mặt trận, góp phần to lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc, giải phóng và thống nhất đất nước.
Với sự quyết đoán, chủ động và sáng tạo trong chỉ đạo công tác đối ngoại của đồng chí Lê Duẩn, tầm quan trọng của đấu tranh ngoại giao đã được nâng lên một mức mới. Không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà đấu tranh ngoại giao còn giữ một vai trò tích cực và chủ động. Toàn bộ quá trình đàm phán của Hiệp định Pa-ri đã thể hiện tầm lãnh đạo kiên quyết và khéo léo của Đảng ta dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Lê Duẩn. Trong các bức thư chỉ đạo cách mạng miền Nam, đồng chí Lê Duẩn nhận định: “Đế quốc Mỹ phải thua nhưng có thể thua đến mức nào, ta phải thắng nhưng có thể thắng đến mức nào; đó là điều phải tính toán, đo lường cho chuẩn xác”. Trong cuộc gặp các đại sứ về dự Hội nghị Ngoại giao lần thứ 7 (tháng 12-1968) khi quá trình đàm phán Pa-ri đã được khởi động, đồng chí Lê Duẩn đã có những nhận định rất sáng suốt: “Ta đang thắng ở miền Nam nên ngoại giao của ta là ngoại giao trên thế thắng. Tuy ở thế thắng nhưng đã đàm phán phải có nhân nhượng, phải làm sao tuy có nhân nhượng nhưng phải thắng cao nhất, thắng nhiều nhất”. Chính những nhận định sáng suốt này đã giúp chiến lược vừa đánh, vừa đàm của Việt Nam thành công vang dội, đạt được mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra là “đánh cho Mỹ cút”, từ đó tạo cơ sở để tiến tới “đánh cho ngụy nhào”, hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước vào tháng 4-1975.
Đóng góp to lớn của ngành ngoại giao đối với chiến thắng vẻ vang đó của dân tộc còn nhờ có sự quản lý thống nhất và hiệu quả của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong công tác đối ngoại. Điều này thể hiện rõ nét qua sự phân công nhiệm vụ rõ ràng và sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các mặt trận đối ngoại và sự phân vai cụ thể đối với các loại hình đấu tranh ngoại giao nhằm phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để giành độc lập và thống nhất đất nước.
Sự quản lý của Nhà nước đối với công tác đối ngoại trước hết thể hiện ở sự phối hợp đồng bộ, thống nhất “tuy hai mà một, tuy một mà hai” giữa hoạt động ngoại giao của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa với hoạt động ngoại giao của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chỉ đạo sự phối hợp đồng bộ này, đồng chí Lê Duẩn căn dặn: Ngoại giao có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, tự do của đất nước, ngoại giao miền Bắc phải phối hợp chặt chẽ với ngoại giao miền Nam. Từ đó, chúng ta đã tạo nên một mặt trận ngoại giao thống nhất vừa đấu tranh cô lập triệt để đế quốc Mỹ, phân hóa hàng ngũ kẻ thù, vừa tăng cường đoàn kết với các lực lượng dân tộc, dân chủ, xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ Việt Nam.
Quản lý nhà nước đối với công tác đối ngoại còn thể hiện ở sự phân vai một cách khoa học và rõ ràng giữa nhiệm vụ của ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân. Đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo: Ngoại giao không những làm việc với chính quyền các nước, mà phải làm ngoại giao trong quần chúng nhân dân các nước đó; quần chúng rất quan trọng, làm cho nhân dân các nước hiểu ta, hiểu chính nghĩa của ta, ủng hộ ta; khi quần chúng hiểu ta và ủng hộ ta thì ở một số nước, chính quần chúng sẽ ép chính phủ ủng hộ ta. Về ngoại giao trong quần chúng, tiếng nói của ngoại giao miền Nam rất quan trọng; ngoại giao miền Bắc phải tích cực ra sức phối hợp. Chính sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng giữa các mặt trận đối ngoại, giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân dưới sự điều phối và quản lý chung của Nhà nước đã giúp khơi dậy tối đa sức mạnh dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại góp phần tạo nên kỳ tích chiến thắng giải phóng đất nước.
Khơi dậy và phát động tối đa sức mạnh của toàn dân trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng chính là thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân đối với sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước. Đồng chí Lê Duẩn đã sáng suốt nhận định rằng: “Sức mạnh của chúng ta trước hết là sức mạnh làm chủ của nhân dân, sức mạnh của cả nước đánh giặc, từ Bắc đến Nam, hậu phương đến tiền tuyến” và khẳng định rằng, nếu phát huy được sức mạnh đó thì “chúng ta nhất định đánh thắng bất kỳ tên xâm lược nào, dù đó là đế quốc Mỹ”. Nhận thức sâu sắc và đúng đắn của đồng chí Lê Duẩn về sức mạnh làm chủ của nhân dân được thể hiện rõ nét nhất trong “Đề cương cách mạng miền Nam” do đồng chí đích thân biên soạn. Trong “Đề cương cách mạng miền Nam”, đồng chí chủ trương xây dựng và củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất nhằm “tập hợp cho hết mọi khả năng, lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân ở miền Nam tham gia rộng rãi trong mặt trận chống Mỹ-Diệm”. Việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam vừa có ý nghĩa chính trị, quân sự, ngoại giao to lớn, vừa là biểu hiện cụ thể của việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, bởi suy cho cùng, cách mạng luôn phải là sự nghiệp của quần chúng.
Tư tưởng sáng suốt đó của đồng chí Lê Duẩn đã giúp ngoại giao Việt Nam kết hợp thành công sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp giải phóng và thống nhất đất nước. Đảng ta đã ghi nhận: “Sự sáng suốt của đồng chí thể hiện nổi bật trước những bước ngoặt của lịch sử và những tình huống phức tạp”. Đây là sự đánh giá chính xác và công bằng đối với vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng nói chung, đối với sự chỉ đạo công tác ngoại giao nói riêng của đồng chí Lê Duẩn.
Giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế
Sau khi đất nước thống nhất, đồng chí Lê Duẩn đã lãnh đạo Đảng ta bước vào thời kỳ kiến thiết đất nước. Trong bối cảnh đó, tư tưởng “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của đồng chí Lê Duẩn đã dần được hoàn chỉnh và đã phát huy những điểm tích cực trong quá trình Đảng chỉ đạo hoạt động đối ngoại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển các mối quan hệ quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, những giá trị cốt lõi trong tư tưởng này tiếp tục được khẳng định. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã được Đại hội VI của Đảng xác định là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội” và sau đó được tiếp tục kế thừa tại các kỳ đại hội tiếp theo. Văn kiện Đại hội XII của Đảng vừa qua cũng nêu rõ: “Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết đảm bảo sự vận hành của cơ chế, làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đạt hiệu quả, thực sự đi vào cuộc sống”.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế đã tạo ra một “phiên bản mới” của sự kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa trên thế giới và trong khung cảnh sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế toàn diện của đất nước ta. Liên quan đến điểm này là ý tưởng về sự mở rộng quan hệ đối ngoại vượt ra khỏi rào cản ý thức hệ. Đây là một luận điểm đã được đồng chí Lê Duẩn đưa ra từ sớm. Trong bài viết “Chủ nghĩa Lê-nin soi sáng mục tiêu cách mạng của thời đại” nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 năm Ngày sinh của V.I.Lê-nin (tháng 4-1970), đồng chí Lê Duẩn đã nhấn mạnh: “Chiến lược đấu tranh cho hòa bình bao gồm một cách tất yếu chính sách cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau”. Đây là những đóng góp quan trọng có ý nghĩa to lớn về lý luận để hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối đối ngoại đoàn kết quốc tế của Đảng ta. Và đây cũng chính là nền tảng cho quá trình đổi mới tư duy đối ngoại, cho chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay.
Từ sau năm 1975, trong hoàn cảnh quốc tế phức tạp và chuyển biến nhanh chóng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và trong nhiệm kỳ đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư, kiến tạo môi trường khu vực và quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đã trở thành nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, hoàn cảnh quốc tế phức tạp của giai đoạn cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980, kết hợp với những hạn chế chủ quan về thế giới quan đã đưa nước ta vào tình thế bị bao vây, cô lập trên trường quốc tế. Đồng chí Lê Duẩn cùng toàn Đảng ta đã dũng cảm rút kinh nghiệm, nhanh chóng đổi mới về tư duy để xây dựng chính sách đối ngoại hiệu quả hơn. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI (tháng 5-1988) nêu rõ: Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh và một mối quan hệ hợp tác quốc tế rộng mở, chúng ta hoàn toàn có thể có đủ khả năng bảo vệ và xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa. Xét về bản chất, “một mối quan hệ quốc tế rộng mở” trên thực tế đã trở thành tiền đề để từ đó chúng ta có “một nền kinh tế mạnh” và cần đến “một nền quốc phòng vừa đủ mạnh”. Điều đó có nghĩa là tư tưởng cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau mà đồng chí Lê Duẩn chủ trương mới thật sự có điều kiện để chuyển hóa thành chính sách đối ngoại cụ thể. Năm 1991, Đại hội VII của Đảng đã chính thức công bố chính sách đối ngoại theo phương châm Việt Nam làm bạn với tất cả các nước. Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) khẳng định rõ hơn: Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế và Đại hội XI (tháng 4-2011), nhấn mạnh thêm Việt Nam là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, chúng ta đã có những đột phá về chính sách đối ngoại để phá thế bao vây, cấm vận, đồng thời từng bước thi hành chính sách mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp đổi mới đất nước. Kết quả là đến nay nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước và vùng lãnh thổ, quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với nhiều quốc gia, trong đó có tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam cũng đã thiết lập được quan hệ kinh tế-thương mại và đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên chính thức của ASEAN và của trên 70 tổ chức quốc tế, khu vực khác, trong đó có tất cả các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Ngoại giao đã giúp đất nước ta xây dựng được một mối quan hệ quốc tế rộng mở để thêm bạn bè, đối tác, bớt sự thù địch từ bên ngoài, tăng cường nguồn lực vốn, thị trường và công nghệ bên ngoài cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước, từ đó tăng tiềm lực quốc phòng, tạo điều kiện bảo đảm an ninh quốc gia cũng như nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
Thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước và sự nghiệp đối ngoại đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng ta. Trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập của đất nước hiện nay, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại tiếp tục là nhân tố quyết định việc thực hiện thành công nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Đại hội XII của Đảng đề ra. Như vậy, nhờ có đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng, từng bước được thể chế hóa bằng luật pháp và sự đồng tâm hiệp lực của toàn dân, nước ta đã đạt được những thành tựu đầy ấn tượng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để giữ vững thành quả cách mạng và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện nhiệm vụ nêu trên càng trở nên đặc biệt quan trọng trong bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực đang có những diễn biến phức tạp và khó lường như hiện nay.
Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, ngoài sự lãnh đạo sáng suốt và đúng đắn của Đảng, việc bảo đảm quyền làm chủ và sự tham gia của toàn dân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đồng chí Lê Duẩn luôn khẳng định sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của toàn dân, vì nhân dân. Phát huy sức mạnh toàn dân cũng chính là sự thể hiện quyền làm chủ của nhân dân đối với vận mệnh và tương lai của đất nước. Đồng chí Lê Duẩn nhận thức rõ: “Đảng chỉ là người lãnh đạo, còn người làm chủ là nhân dân, và nhân dân làm chủ chủ yếu bằng Nhà nước”. Tư tưởng này vẫn còn nguyên giá trị áp dụng cho công tác đối ngoại trong giai đoạn hiện nay. Kế thừa tư tưởng đó, Đảng ta đã xây dựng một chính sách đối ngoại dựa trên việc phụng sự và trung thành với lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. Theo đó, quyền lợi của Đảng và quyền lợi của nhân dân là đồng nhất, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài phục vụ quyền lợi của đất nước và nhân dân phải là người được thụ hưởng những thành quả của công tác đối ngoại.
Gắn liền sự nghiệp của Đảng với sự nghiệp của toàn dân, Đảng ta chủ trương phải “bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị”. Đây là định hướng quan trọng đối với quá trình hội nhập quốc tế được Đại hội XII của Đảng nêu rõ. Từ định hướng này, công tác đối ngoại đã và sẽ được xây dựng trên một cơ sở đồng thuận xã hội lớn hơn; khái niệm lợi ích quốc gia-dân tộc đã ngày càng trở nên cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thuận lớn hơn sẽ góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường nhất trí trong toàn bộ hệ thống chính trị về các vấn đề đối ngoại và từ đó tạo cơ sở mới để huy động nhiều hơn nữa nguồn lực bên trong cho công tác đối ngoại và tạo điều kiện mới để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công tác đối ngoại. Hiểu theo một cách khác, những thành tựu to lớn của Đảng trong việc khắc phục hậu quả chiến tranh, phá thế bao vây, cấm vận, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới với nhiều thành tựu quan trọng, từng bước đưa đất nước hội nhập thành công vào khu vực và thế giới chính là kết quả của việc nhận thức rõ hơn và phát huy tốt hơn tinh thần làm chủ của nhân dân mà đồng chí Lê Duẩn đã đúc kết.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong hội nhập quốc tế nói riêng và công tác đối ngoại nói chung cũng được Đảng ta hết sức coi trọng. Để hội nhập quốc tế thành công, Nhà nước ta đã xây dựng và ngày càng hoàn thiện cơ chế thống nhất quản lý đối ngoại để theo đó mọi bộ, ngành, cơ quan, đoàn thể và các tổ chức xã hội, cá nhân đều có thể tham gia đóng góp tích cực và hiệu quả nhất, tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của tất cả các tổ chức, cá nhân đều được phát huy, và các tiềm năng của toàn xã hội, của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều được khai thác, từ đó đưa sự nghiệp hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn. Sự quản lý của Nhà nước đối với công tác đối ngoại do vậy đã và đang tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam hiện nay, đúng như tư duy về vai trò của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta mà đồng chí Lê Duẩn đã góp phần xây dựng và phát triển.
*
* *
Tư tưởng “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”-kết tinh trí tuệ của đồng chí Lê Duẩn là sản phẩm tất yếu của lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, bảo đảm cho thành công của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa qua các giai đoạn khác nhau. Đặc biệt trong công tác đối ngoại, tư tưởng này đã trở thành một trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến những thành tựu đối ngoại quan trọng trong thời kỳ Đổi mới. Tháng 8-2016, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 đã nhấn mạnh: Bao trùm tất cả là bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, trước hết là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cùng các cơ quan tham mưu đã chứng tỏ sự nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra các biện pháp, chính sách cụ thể. Đó là cơ sở để chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là của các nhà lãnh đạo tài ba của Đảng qua các thời kỳ, trong đó đồng chí Lê Duẩn là một đại diện tiêu biểu, sự nghiệp đối ngoại nói riêng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung của đất nước ta vẫn tiếp tục thu được những thành tựu quan trọng trong thời gian tới.